Hoàng Kim kỷ niệm 10 năm thành lập
Hoàng Kim kỷ niệm 10 năm thành lập
Tẩm quất Hoàng Kim
Tẩm quất Hoàng Kim
Tẩm quất Hoàng Kim
Tẩm quất Hoàng Kim

tin tức nổi bật

XƠ GAN

 

Xơ gan là một bệnh mạn tính toàn thân tổn thương chủ yếu là cấu trúc của gan bị biến dạng do sự tăng sinh và xơ hóa của tổ chức gan, hình thành các cục tại mô gan. Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là chức năng gan giảm và một loạt triệu chứng do tăng áp lực tĩnh mạch cửa. Căn cứ vào các triệu chứng lâm sàng khác nhau mà y học cổ truyền thường mô tả trong các chứng: ‘Tích Tụ’, ‘Cổ Trướng’, ‘Phúc Trướng’ [Linh Khu], 'Thủy cổ" (Cảnh Nhạc Toàn Thư)...

Nguyên Nhân

Những nguyên nhân thường gặp theo y học hiện đại là:

l. Viêm gan do vi rút.

2. Nhiễm bệnh hấp huyết trùng (gặp nhiều ở Trung Quốc).

3. Dinh dưỡng kém và nghiện rượu.

4. Nhiễm độc hóa chất như Thạch tín... Hoặc do tắc mật kéo dài gây xơ gan, thường rất ít gặp.

Theo y học cổ truyền thì sự hình thành của xơ gan có liên quan đến 3 tạng Can, Tỳ và Thận. Nguyên nhân chính là do khí trệ, huyết ứ, thủy thấp ứ đọng trong cơ thể dẫn đến làm hư tổn thận âm, thận dương. Có thể giải thích cơ chế các triệu chứng bệnh lý như sau: Chứng hoàng đản và tích tụ trực tiếp ảnh huởng đến tạng Can. Can tàng huyết, thích sơ tiết, bệnh lâu ngày, Can không được thông điều sinh ra can khí uất sẽ ảnh hưởng đến chức năng của tỳ vị (can vị bất hòa, tỳ vị hư nhược). Trên lâm sàng thường có các triệu chứng như ngực sườn đầy tức, ợ hơi, nôn, buồn nôn, chán ăn, tiêu lỏng... bệnh lâu ngày khí trệ sinh ra huyết ứ, biểu hiện các triệu chứng mạn sườn đau tức tăng cố định, môi lưỡi tím thâm, các hội chứng ứ huyết, xuất huyết. Mặt khác, nếu do ăn uống thiếu thốn thất thường, nghiện rượu quá độ cũng làm tổn thương tỳ vị, chức năng tỳ vận hoá kém nội sinh thấp nhiệt, tân dịch bị tổn thương. Nếu cảm nhiễm trùng độc hoặc hóa chất độc hại cũngđều do tác hại can tỳ mà sinh bệnh. Bệnh lâu ngày sẽ tổn hại thận, thận dương hư tiểu khó khăn, phù

và cổ trướng nặng hơn, thận âm hư dẫn tới can thận âm hư, can hỏa vượng, can huyết hao tổn, can phong động sinh co giật hôn mê... Tóm lại bệnh xơ gan giai đoạn đầu chủ yếu là tổn thương can tỳ, khí ứ, huyết trệ, vào glai đoạn cuối tạng thậân cũng bị tổân thương sinh ra tỳ thận dương hư và can thâïn âm hư, bệnh trầm trọng và khó trị.

Triệu Chứng

- Giai đoạn bắt dầu: Chức năng gan còn bù trừ, triệu chứng lâm sàng thường không rõ hoặc rất nhẹ, chủ yếu triệu chứng rối loạn tiêu hóa như ăn không biết ngon, tiêu lỏng, người bệnh cảm thấy mệt mỏi, đau nhẹ, hơi tức vùng bụïng trên bên phải hoặc đầy bụng, nôn hoặc buồn nôn. Khám gan hơi to (có thể không to), có bệnh nhân lách to. Chức năng gan bình thường hoặc hơi suy giảm, có thể khám kỹ phát hiện điểm ứ huyết, mạch sao mà xác định bệnh.

- Giai đoạn toàn phát: Chức năng gan suy giảm rõ. Lâm sàng biểu hiện triệu chứng rối loạn tiêu hóa tăng, mạn sườn bên phải đau rõ, sụt cân, da xạm, có bệnh nhân vàng da, vàng mắt, điểm ứ huyết, mạch sao ở mặt, ngực, tay, vai, cổ.. . hoặc có hiện tượng giãn mao mạch, bàn tay, đầu ngón tay đỏ mập lên, chân răng, mũi, trĩ, xuất huyết, tiêu có máu, phụ nữ kinh nguyệt nhiều kéo dài, hoặc có triệu chứng hoa mắt, chóng mặt, tim hồi hộp, ít ngủ, chân tay tê dại, ngứa, tiểu ít, hoặc tiểu khó, cổ chân phù, bụng có nước nhẹ. Khám gan thấy có thể eo nhỏ hoặc to dưới bờ sườn, bờ sắc cứng.

- Giai doạn cuối: Triệu chứng tăng áp lực tĩnh mạch rõ: cổ trướng, da bụng bóng, tuần hoàn bàng hệ, tiểu rất ít hoặc vô niệu, khó thở, người gầy, sắc mặt xạm tối, da mặt vàng đậm, bệnh nặng có xuất huyết tiêu hóa, tinh thần lờ đờ, buồn ngủ hoặc hưng phấn, hốt hoảng, hôn mê gan...

Chẩn Đoán

Chủ yếu là cần có sự chẩn đoán sớm qua những lần khám sức khỏe có định kỳ, chú ý những người có tiền sử bệnh gan vàng da, điều kiện dinh dưỡng kém, nghiện rượu, sống ở vùng có bệnh sốt rét, giun móc, công việc có tiếp xúc với hóa chất độc...

Chẩn đoán xơ gan căn cứ vào các mặt sau:

1. Tiền sử bệnh: Mắc bệnh viêm gan vi rút, hấp huyết trùng, sốt rét, bệnh gan mật, vàng da, điều kiện dinh dưỡng kém, nghiện rượu, suy tim phải kéo dài.

2. Gan lách to lúc mới mắc, gan to, mặt vùng gan nhẵn, hơi cứng, thời kỳ cuối gan co nhỏ, cứng, bề mặt lồi lõm, có hòn cục, thường ấn đau không rõõ rệt, lách to hoặc rất to nếu có xuất huyết tiêu hóa thường lách nhỏ lại.

3. Chức năng gan suy giảm.

4. Triệu chứng tăng áp lực tĩnh mạch cửa.

5. Kết quả sinh thiết: cấu trúc gan biến dạng, tăng sính tổ chức và sự hình thành các cục ở mô gan.

Căn cứ vào nguyên nhân xơ gan trên lâm sàng thường chia gan do viêm gan, xơ gan do rượu, xơ gan do mật, xơ gan do tim, xơ gan do sắc tố, xơ gan do hấp huyết trùng, do sốt rét...

Một số kết quả xét nghiệm và các phương pháp kiểm tra khác có thể tham khảo trong chẩn đoán.

a. Số lượng tế bào hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu đều giảm, tế bào non của tủy tăng.

b. Nước tiểu có anbumin và trụ niệu.

c. Albumin huyết thanh giảm, Globulin huyết thanh tăng, tỷ lệ A/G giảm hoậc nghịch đảo, điện di protein có gamma-globulin tăng cao, bêta-globulin tăng vừa, albumin nhất là anbumin tiền huyết thanh giảm.

d. Phản ứng kết tủa và lên bông: EnTT, CCFT, TTT, TFT đều dương tính, bilirubin huyết thanh cao quá 2mg%, SGPT và SGOT đều tăng... đều có thể giúp chẩn đoán nhưng không có tính đặc hiệu.

e. Đối với xơ gan do mật, Cholesteron tăng cao, bình thường hoặc hơi thấp, nếu Cholesteron thấp rõ nói lên tiên lượng là không tốt.

f. Tiền hôn mê gan, Ammoniemia cao, vào giai đoạn cuối xơ gan thời gian prothrombin kéo dài rõ.

g. Trong bệnh xơ gan, AFT tăng cao.

h. Lúc cần và có điều kiện làm thêm siêu âm gan, chụp thực quản, soi dạ dày ổ bụng. để giúp chẩn đoán.

Điều Trị

Theo sự phân tích về cơ chế sinh bệnh và theo y học cổ truyền thì trong bệnh xơ gan, bệnh lý chủ yếu là can huyết ứ trệ, cho nên phép chữa chính là hoạt huyết hóa ứ và trong quá trình điều trị cần phân biệt rõ các mặt tiêu bản, hư thực, hoãn cấp để chọn phép chữa thích hợp, chủ yếu theo 3 giai đoạn bệnh mà biện chứng luận trị.

l- Giai Đoạn Đầu: Bệnh mới bị, bệnh nhân còn khỏe.

Điều trị: Hoạt huyết, hóa ứ kiêm điều can lý tỳ. Dùng bài Huyết Phủ Trục Ứ Thang gia giảm: Đương quy 12- 16g, Xuyên Khung 8g, Chỉ xác 8g, Xuyên sơn giáp (nướng) 12g, Sinh địa hoàng 12g, Đào nhân 8 - 12g, Sài hồ 8- 12g, Ngũ linh chi 6-8g, Xích thược 8- 12g, Hồng hoa 6- 10g, Đơn sâm 12g, Miết giáp 12- 16g.

Gia giảm: Mệt mỏi nhiều, thêm Hoàng kỳ, Đảng sâm, Bạch truật, Bạch linh để ích khí kiện tỳ. Ăn ít, bụng đầy, bỏ Miết giáp thêm Mạch nha, Sơn tra, Thần khúc để tiêu thực. Miệng khô, tiêu ít, vàng, da nóng, vàng da, rêu lưỡi vàng dày, mạch Sác... có triệu chứng thấp nhiệt, bỏ Miết giáp, Đào nhân, Hồng hoa thêm Nhân trần, Chi tử, Liên kiều, Xa tiền, Trạch tả... Có triêïu chứng hư nhiệt như sốt lòng bàn chân, bàn tay nóng, lưỡi thon đỏ, mạch Tế Sác, bỏ Đào nhân, Hồng hoa thêm Tri mẫu, Địa cốt bì, Hạn liên thảo, Mạch môn, Ngũ vị tử... để thanh hư nhiệt. Ngủ kém thêm Táo nhân sao, Bá tử Nhân... để dưỡng tâm, an thần.

2. Giai Đoạn Toàn Phát: Chức năng gan suy giảm, cơ thể bệnh nhân yếu, đau hoặc không nhưng có phù, bụng đầy, có nước, vùng gan đầy tức... bệnh biểu hiện hư thực lẫn lộn.

Điều trị: Sơ can, hoạt huyết, kiện tỳ, lợi thủy. Dùng bài Tiêu Dao Tán thêm Ngũ Bì Ẩm gia giảm: Sài hồ 12 - 16g, Bạch truật 12g, Đan sâm 12g, Đại phúc bì 8 - 10g, Đương qui 12 - 16g, Bạch linh 12g, Chỉ thực 8g, Tang bạch bì 12g, Xích thược 10g, Đảng sâm 12g, Trần bì 8g, Gừng tươi 3 lát.

Gia giảm: Mạn sườn đau nhiều, gan lách to, có nốt ứ huyết thêm Đương quy vĩ, Xuyên sơn giáp, chế Hương phụ, Uất kim để tăng thêm tác dụng hành khí, hoạt huyết. Có triệu chứng huyết hư thêm Bạch thược, Thục địa, Hà thủ ô, Kỷ tử, Hoa hòe để bổ huyết, chỉ huyết. Can thận âm hư, sốt nhẹ, lòng bàn chân tay nóng, chất lưỡi thon đỏ, mạch Huyền Tế cần thêm thuốc tư dưỡng can thận như Sa sâm, Mạch môn Ngũ vị tử, Sinh địa, Nữ trinh tử, Câu kỷ tử, Bạch thược, Hạn liên thảo...

3. Giai đoạn cuối: Đến giai đoạn cuối thì cơ thể người bệnh đã quá suy yếu do chính khí hư nhưng cổ trướng lại tăng (tà khí thực) nên phép chữa phải dùng vừa công vừa bổ, cần chú ý nắm nguyên tắc ‘cấp trị tiêu, hoãn trị bản’, phép trị bản chủ yếu bổ khí huyết, sơ Can, kiện tỳ. Trị tiêu chủ yếu là công trục cổ trướng...

Phép trị: Bổ khí huyết. Dùng bài Bát Trân Thang, Thập Toàn Đại Bổ gia giảm tùy tình hình bệnh.

Đảng sâm 12g, Bạch truật 30-60g, Kỷ tử 12-20g Đơn sâm 12-20g, Hoàng kỳ 12g, Đương quy 12-20g, Sơn dược 12- 16g, Xa tiền tử 12-20g, Bạch phục linh 12g, Bạch thược 12-20g, Ý dĩ nhân 12-20g Chích thảo 4-8g.

Gia giảm: Tỳ thận dương hư, ăn kém, tiêu lỏng, mặt xạm, lưng đau, bàn chân phù, chân tay lạnh, lưỡi bệu, rêu trắng, mạch Trầm, Trì, Huyền, cần ôn bổ tỳ thận, dùng bài thuốc gồm các vị chế Phụ tử, Nhục quế, Xuyên ngưu tất, Phòng kỷ, Can khương, Bạch linh, Bạch truật, Trạch tả... Trường hợp can thận âm hư, hoa mắt, chóng mặt, ù tai, mắt khô, ít ngủ, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Huyền Tế Sác... cần tư dưỡng can thận, dùng bài thuốc gồm các vị: Hà thủ ô, Kỷ tử, Sinh địa, Mạch môn, Sa sâm, Thạch hộc, Đan sâm, Kê huyết đằng, Quy bản, Miết giáp... Trường hợp xuất huyết nhiều (nôn ra máu hoặc tiêu ra máu, hôn mê gan, cần xử trí cấp cứu kết hợp Đông Tây Y).

Trường hợp cổ trướng nặng gây nên khó thở cần công trụïc cổ trướng, có thể dùng một trong những bài sau: Bị Cấp Hoàn (Ba đậu bỏ vỏ, ép hết dầu, Đại hoàng, Can khương, lượng bằng nhau, sấy khô, tán bột mịn, luyện mật ong, làm viên), mỗi lần uống 1-2g với nước ấm. Ngũ Công Tán (Khiên ngưu tử 120g, Tiểu hồi hương 30g, tán bột, làm viên. Mỗi lần uống l,5-3g, nuốt ngày 1-2 lần. Gia Vị Thập Táo Thang: Đại kích (chế dấm), Nguyên hoa, Cam toại, Hổ phách, Trầm hương, Hắc Bạch sửu, lượng bằng nhau, tán bột mịn, trộn đều) mỗi lần uống l,5-3g với nưóc sắc Táo tàu. Chu Xa Hoàn (Cam toại, Nguyên hoa, Đại kích, Đại hoàng, Hắc sửu, Mộc hương, Trần bì, Thanh bì, Khinh phấn, Binh lang). Mỗi lần uống 07,5 – 1g.

Chú ý đối với những bệnh nhân có xuất huyết, có bệnh tim, người bệnh quá suy kiệt, không nên dùng phép trục thủy. Lúc dùng phép trục thủy nên kết hợp Tây y truyền dịch để tránh được trạng thái mất nước tổn hại chân âm. Có thể dùng thang Lý Ngư Xích Tiểâu Đậu Thang: Cá chép 1 con 500g, đánh vảy sạch, bỏ lòng ruột. Xích tiểu đậu 60g, không cho muối, nấu chín nhừ lọc qua vải lấy nước uống, ngày uống 1 thang, uống liền trong 2-3 tuần có kết qủa tốt.

MỘT SỐ BÀI THUỐC KINH NGHIỆM TRỊ XƠ GAN

+ Kiện Tỳ Hoạt Huyết Thang (Lưu Hào Giang, bệnh viện Ung thư Nam Thông, tỉnh Giang Tô): Sơn dược, Biển đậu, Ý dĩ, Đơn sâm, Xích thược đều 30g, Thần khúc, Cốc nha, Mạch nha, sinh Bồ hoàng đều 10g, Tam lăng, Nga truật đều 15-30g, sắc uống (trị xơ gan giai đoạn đầu).

Khí hư thêm Hoàng kỳ 30g, Đảng sâm 10g. Huyết hư thêm Thục địa, Đương qui đều 10g. Âm hư thêm Nam sa sâm, Mạch môn đều 10g. Dương hư thêm Thục phụ phiến 10g, Can khương 3g. Vùng gan đau thêm Kim linh tử, Diên hồ sách đều 10g. Nôn, buồn nôn thêm Đại giả thạch 30g, Tuyền phúc hoa 10g. Chảy máu mũi thêm Tiên hạc thảo 30g, Trắc bá diệp sao cháy 10g.

Kết quảù lâm sàng: Trị 42 ca, khỏi 22 ca, kết quả tốt 11 ca, tiến bộ 5 ca, không kết quả 4 ca, tỷ lệ kết quả 90,5%.

+ Hộ Can Thang (Hình Bỉnh Vinh, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc): Bạch truật, Hoàng kỳ, Hổ trượng, Bình địa mộc đều 20g, Sơn dược, Sinh ý dĩ, Biển đậu, Đơn sâm, đều 30g, Sao Mạch nha, sao Thần khúc sao Sơn tra đều 10g, Quy vĩ 15g, sắc uống.

Âm hư thêm Hà thủ ô 30g, Mạch môn 20g. Huyết hư thêm Thục địa 15g, Kê huyết đằng 30g. Khí hư thêm Đảng sâm 20g, Thái tử sâm 30g. Dương hư thêm Phụ phiến 10g, Can khương 3g. Xuất huyết thêm Mao căn 30g, Tiên hạc thảo 30g. Vùng gan đau thêm Kim linh tử 10g, tiêu Địa long 10g, Sài hồ 5g, Diên hồ sách 10g...

- Kết quả lâm sàng: Trị 37 ca, sau 3-6 tháng, khỏi 18 ca, tốt 11 ca, có kết quả 4 ca, không kết quảû 4 ca, tỷ lệ có kết qủa 88,57%.

+ Tiêu Trưng Hoàn (Vương Kiện Trung, tỉnh Hồ Bắc): Địa Miết trùng 100g, Bào sơn giáp 100g, Thủy điệt 75g, Đại hoàng 50g, tán bột, hồ làm hoàn (có thể trộn nước làm hoàn).

Dùng bài thuốc theo biện chứng gia giảm, trường hợp có xuất huyết uống thuốc cầm máu, hết xuất huyết tiếp tục dùng.

Kết quả lâm sàng: Trị 40 ca, khỏi 11 ca, cơ bản khỏi 13 ca, tiến bộ 12 ca, không khỏi 4 ca, tỷ lệ có kết quả 90%.

+ Hoạt Can Thang (Vương Thanh Chính, huyện Quý Định, tỉnh Quý Châu): Kim tiền thảo, Phục linh đều 30g, Sơn giáp (nướng) 10g, Trạch Lan 10g, Đại phúc bì 12g, Đơn sâm, Sơn dược, Trạch tả, Hoàng kỳ đều 15g, sắc uống.

Tỳ hư, thấp nặng thêm Thương truật, Hậu phác, Ý dĩ. Can khí uất bỏ Hoàng kỳ thêm Sài hồ, Bạch thược, Chỉ xác, Hương phụ. Khí trệ huyết ứ bỏ Hoàng kỳ, Sơn dược thêm Tam lăng, Nga truật đều 2g, Miết giáp 30g, Đào nhân 12g. Tỳ thận dương hư kết hợp bài Phụ Tử Lý Trung Thang.

- Kết quả lâm sàng: Trị 50 ca, tốt 35 ca, tiến bộ 14 ca, không kết quả 1 ca.

+ Kiện Tỳ Nhuyễn Can Thang (Chu Minh Liệt, bệnh viện nhân dân Sa Thị số 3, tỉnh Hồ Bắc): Sài hồ, Bạch truật, Ngũ linh chi, Bạch linh, Địa long, Đan sâm đều 15g, Thanh bì, Chỉ xác, Bồ hoàng đều 12, Thuyên thảo 10g, Chích Miết giáp 20g, Kê nội kim 8g, Bạch mao căn 30g, Cam thảo 5g, sắc uống.

Biện Chứng gia giảm: Bụng đầy, ăn ít thêm Sa nhân 10g, Sơn tra, Mạch nha, Cốc nha 15g. Bụng có nước thêm bột Nhị sửu sao 10- 15g, sao Sa nhân 8- 10g, Xa tiền tử 15-20g. Bụng có tuần hoàn bànb hệ (ứ huyết) thêm Xích thược, Uất kim đều 15g, Tam lăng, Nga truật 12- 15g. Có mạch sao và lòng bàn tay đỏ thêm Sinh địa 15g, Xích thược 15g, Đào nhân 2g, Hồng hoa 10g, Kê huyết đằng 20g. Tiêu lỏng thêm Thương truật 15g, Hoắc hương 10g, Thần khúc 15g, Trạch tả 12g. Gan lác to thêm Thổ miết trùng 10g, Quế chi 10g, Xạ can l2g.

- Kết quả lâm sàng: Trị 83 ca, hết triệu chứng lâm sàng, chức nâng gan hồi phục bình thường.

Kiện Tỳ Phân Tiêu Thang (Lữ Vân Kiếm, bệnh viện Trung y Hạ Ấp, tỉnh Hà Nam):

(1) Hoàng kỳ, Sơn dược, Đơn sâm đều 20g, Ý dĩ nhân, Xa tiền tử (bọc sắc), Đại phúc bì đều 30g, Đảng sâm, Phục linh, Bạch truật, Tiên linh tỳ, Miết giáp đều 15g, Uất kim, Thanh bì, Trần bì đều 12g, Phụï tử, Cam thảo đều 6g sắc uống.

(2) Cam toại, Nhị sửu đều 6g, Phụ tử, Nhục quế đều 10g, Nước Gừng tươi lượng vừa đủ, thuốc đều tán thành bột mịn, cho gừng trộn đều, cho vào vải gạc, thêm nước gừng thành dạng hồ, đắp vào rốn bệnh nhân, mỗi ngày thay 1 lần. 10 ngày là 1 liệu trình.

- Biện chứng gia giảm: Chỉ số hoàng đản tăng, dùng bột Tử ha xa, Lộc nhung. Tiểu cầu giảm, thời gian máu đông, máu chảy kéo dài thêm Hạn liên thảo, Nữ trinh tử, Tiên hạc thảo. Amoniac huyết tăng thêm Đại hoàng, Xương bồ, Giáng hương. SGPT tăng cao thêm Bồ công anh, Hạ khô thảo. HBsAg dương tính thêm Thổ phục linh, Hổ trượng, Quán chúng. Ăn kém thêm sao Mạch nha, sao Thần khúc, sao Sơn tra, Kê nội kim. Âm hư thêm Bắc sa sâm, Mạch đông, Cát căn, bỏ Phụ tử, Tiên linh tỳ.

Kết quả lâm sàng: Trị 50 ca, khỏi 8 ca, tốt 29 ca, có kết quả 10 ca, không kết quả 3 ca, tỷ lệ có kết quả 94%.

Tam Giáp Phục Can Hoàn (Trương Húc Đông, bệnh viện Trung y Chu Châu tỉnh Hồ Nam): Chích Miết giáp, bào Giáp châu, Quy bản, A giao, Hoài sơn, Đương quy, Sinh hoàng kỳ, Ý dĩ, Phục linh đều 150g, Kê nội kim 100g, Trầm hương 75g, tất cả thuốc trên tán bột mịn, mật vừa đủ làm hoàn.

- Biện chứng gia giảm: Can khí uất trệ, dùng Tiêu Dao Tán gia giảm. Huyết ứ, thủy trệ, dùng Đại Hoàng Miết Trùng Hoàn gia giảm. Thấp nhiệt ứ trệ dùng Nhân Trần Tứ Linh Tán hợp Tam Nhân Thang gia giảm. Can thận âm hư gia Lục Vị Địa Hoàng Hoàn gia giảm.

- Kết quả lâm sàng: Trị 40 ca, kết quả tốt 24 ca, tiến bộ 10 ca, không kết quả 6 ca. Đối với xơ gan, bài này làm tăng tác dụng thuốc tây lợi tiểu.

Hoàng Kỳ Nga Truật Thang (Trung Y Tạp Chí (7) 1990): Hoàng kỳ (sống) 20g, Nga truật 30g, Bạch truật (sao) 15g, Hồng hoa 20g, Sài hồ (tẩm dấm) 10g, Bạch phàn 2g, Địa miết trùng 10g, Cam thảo (sống) 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

TD: Sơ Can lý khí, hoạt huyết hóa ứ. Trị xơ gan giai đoạn đầu.

Đã trị 78 ca, có hiệu qủ 37, chuyển biến tốt 33, không hiệu quả 8. Tỉ lệ đạt kết quả là 89,7%.

Lợi Thủy Tiêu Trướng Thang (Thiểm Tây Trung Y (5) 1981): Bạch truật, Thương truật, Sa nhân đều 10g, Thanh bì, Trần bì, Hâïu phác, Chỉ thực đều 9g, Hương phụ, Mộc hương đều 6g, Phục linh, Đại phúc bì, Trư linh, Trạch tả đều 15g, Ý dĩ nhân 6g, Sinh khương 3 lát.

TD: Nhu Can lý khí, kiện Tỳ lợi thấp. Trị xơ gan, bụng trướng nước.

Đã trị 20 ca đều có kết quả tốt.

Lý Khí Trục Thủy Thang (Hồ Bắc, Trần Đống Tổ Truyền Bí Phương): Thanh bì, Trần bì, Chỉ xác, Mộc hương, Hậu phác, Binh lang (phiến), Địa phu tử đều 9g, Phục linh 30g, Đại kích, Cam toại.

Thuốc sắc. Còn Đại kích, Cam toại, tán bột, trộn đều chia làm 4 phần, lần đầu 1,5g, 3g,, 4,5g, 6g.

TD: Lý khí, trục thủy. Trị xơ gan giai đoạn đầu.

GC: Sau khi uống thuốc, có thể đi tiêu 3-5 lần, thường ra nước mầu đen.

Đã trị hàng trăm ca đều có kết quả tốt.

Tiêu Trùng Ẩm (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương): Đảng sâm, Đương quy đều 15-20g, Bạch truật 30-100g, Phục linh 20-30g, Sài hồ 6g, Xích thược, Đại phúc bì đều 10-15g, Địa khô lâu 40-60g. Sắc uống.

TD: Kiện Tỳ ích Can, hòa Can hoạt huyết, lý khí tiêu trướng, trục thủy đạo trệ. Trị xơ gan, bụng trướng nước. Lâm sàng cho thấy đạt hiệu quả khả quan.

Thanh Nhiệt Đạt Uất Thang (Danh Y Trị Nghiệm Lương Phương): Đại sinh địa 35g, Công đinh hương, Can khương, Viễn chí (sống), Hoàng cầm, Quế chi, Bồ công anh đều 10g, Tri mẫu 20g, Cam thảo 8g, Đại táo 10 trái. Sắc uống.

TD: Bình điều âm dương, thanh nhiệt đạt uất. Trị xơ gan, bụng nước, bế kinh, không thụ thai. Lâm sàng cho thấy đạt hiệu quả khả quan.

  BỆNH NHIỄM MỠ XƠ MẠCH

Đại Cương

Nhiễm mỡ xơ mạch là một bệnh mạn tính của động mạch kéo dài hàng chục năm, gặp nhiều nhất ở lứa tuổi từ 50 đến 70, dưới 20 tuổi cũng có thể bắt đầu phát hiện bệnh và sau 70 tuổi bệnh giảm dần. Bệnh lý chủ yếu là hai quá trình thoái hóa và tăng sinh cùng diễn tiến ở thành mạch, làm cho thành mạch dày lên và xơ cứng, mất tính đàn hồi và hẹp lòng mạch, cản trở tuần hoàn. Nhiễm mỡ và xơ hóa thành mạch bắt nguồn từ rối loạn chuyển hóa mà chủ yếu là sự rối loạn chuyển hóa Lipit trong toàn cơ thể.

Bệnh không do một nguyên nhân duy nhất trực tiếp nào gây ra, mà là hậu quả của sự tác động nhiều yếu tố nguy cơ (risk factors). Qua nhiều công trình nghiên cứu nhiều năm, đa số tác giả đã nêu lên các yếu tố sau:

1) Tuổi cao, nam giới nhiều.

2) Trạng thái tăng Cholesterol và Lipoprotein trong máu.

3) Bệnh cao huyết áp. Huyết áp cao cũng có liên quan đến xơ vữa động mạch và là một hội chứng của bệnh này. Cũng vậy, xơ vữa động mạch gây nên huyết áp cao. Vì thế hai bệnh này có liên hệ với nhau.

4) Hút thuốc lá. Sử dụng quá nhiều rượu và thuốc lá, làm cho mạch máu bị hẹp lại.

5- Bệnh đái đường (Diabète succré).

6) Chế độ ăn không hợp lý, lên cân quá nhiều. Có quá nhiều mỡ trong chế độ ăn làm tăng mức Cholesterol trong máu, Cholesterol đọng lại trong mạch máu làm cho thành mạch dày lên, làm tổn thương mạch máu. Lượng Cholesterol cao báo hiệu sự xuất hiện của xơ vữa động mạch. Những thí nghiệm trên súc vật cho thấy chế độ ăn giầu dinh dưỡng làm tăng Cholesterol.

7) Hệ thần kinh dễ xúc cảm, thường xuyên căng thẳng. Thần kinh căng thẳng dẫn đến tăng sinh Adrenalin, Adrenalin góp phần vào xơ vữa động mạch.

8) Ít vận động thể lực.

9) Yếu tố di truyền: Có nhiều người mắc bệnh, đàn ông trẻ đãø có nhiều yếu tố nguy cơ. Yếu tố di truyền có thể là tiền đề ở một người phát triển xơ vữa động mạch do sự thay đổi cấu trúc của mạch máu.

10) Rối loạn cân bằng giữa 2 hệ thống đông máu và chống đông.

11) Bệnh Goutte và trạng thái tăng axit uric máu.

12) Tiền sử cá nhân có bệnh nhược năng tuyến giáp viêm cầu thận mãn.

13) Sự mất cân bằng hormon đặc biệt là hormon nữ giới ảnh hưởng đến Tỳ và tuyến giáp được coi như những yếu tố gây căng thẳng và tổn thương đến mạch máu.

13) Nghẽn mạch máu cũng đóng góp vào việc phát triển xơ vữa động mạch.

Cơ chế sinh bệnh khá phức tạp, hiện có những lý giải như sau được chú ý:

1) Cơ chế thâm nhập các lipit từ trong máu vào thành động mạch xuyên qua các khoảng cách giữa các tế bào nội mạc hoặc có sự trao đổi xuyên qua màng tế bào nội mạc (đề xuất sớm nhất nhưng không đủ để giải thích nhiều điểm quan trọng trong bệnh sinh).

2) Khả năng tự bảo vệ của lớp nội mạc giảm sút (do men tổng hợp Prostaglandine (PG 12) do tế bào nội mạc tiết ra giảm sút, men này có tác dụng ngăn chặn sự ngưng tập của tiểu cầu) (Moncada, Vang... 1979).

3) Những thay đổi tăng giảm của các loại lipoprotein trong máu như tăng Cholesterol, tăng Triglyceride, tăng các loại Lipoprotein gây xơ mỡ (ß- lipoprotein (LDL), tăng tiền ß-lipoprotein (VLDL). Còn loại Lipoprotein tỉ trọng cao (HDL) có tác dụng bảo vệ cơ thể chống xơ mỡ thì giảm sút.

4) Vai trò của gan chống xơ mỡ: Gan tạo ra men Lecithine Cholesterol Acyl Transferase (LCAT). Men LCAT xúc tác sự vận chuyển của a xít béo nhiều lần không no (Polyinsaturés), đưa Cholesterol qua các Lepoprotein gây bệnh về gan. Tại gan, Cholesterol được biến thành acid mật và thải ra ngoài. Acid béo nhiều lần không no (Acides gras polyinsaturés) có nhiều trong dầu thực vật (trừ dầu dừa) là tiền thân của Prostaglandine và tham gia vào phản ứng: Cholesterol tự do + Léclthine Cholesterol ester hóa + Lyso lécithine.

Qua đó men LCAT của gan kết hợp HDL góp phần thải Cholesterol cho nên ăn dầu thực vật có tác dụng phòng bệnh nhiễm mỡ xơ mạch.

5) Cơ chế tự miễn (Autoimmune): Trong những điều kiện nhất định, các Lipoproteines có thể biến thành những tự kháng nguyên (Autoantigènes), cơ thể sẽ sinh ra những kháng thể đặc hiệu chống lại mà hình thành những phức hợp tự miễn (Complexes autoimmunes) có tác dụng gây bệnh do làm tổn thương nội mạc, xâm nhập vào thành động mạch và khởi động quá trình xơ mỡ động mạch (Chebotarev D. F. và cộng sự).

Triệu Chứng Lâm Sàng

Thường chia tiến triển bệnh làm 2 thời kỳ:

+ Thời kỳ tiền lâm sàng: Chẩn đoán bệnh chủ yếu dựa vào các biến động trong các tham số hóa sinh nói lên trạng thái rối loạn chuyển hóa, chủ yếu là chuyển hóa lipit (Hyperlipidémie, Dyslipoprotéinémie).

+ Thời kỳ lâm sàng: Thời kỳ này cũng có thêm là thời kỳ biến chứng của bệnh.

Triệu chứng lâm sàng tùy thuộc cơ quan bị biến chứng.

1) Động mạch chủ ngực: Không có triệu chứng lâm sàng rõ.

- Chụp X quang phát hiện cung động mạch chủ to đậm, quai động mạch chủ giãn rộng, phình to có khi có can xi hóa.

- Khi tổn thương lan đến van động mạch chủ và động mạch vành tim thì có triệu chứng hở van động mạch chủ: Tiếng thổi tâm trương ở liên sườn 2 trái, huyết áp chênh lệch rộng.

2) Động mạch vành tim: Triệu chứng thiếu máu cục bộ: Cơn đau thắt ngực (Angor pectoris, Angina pectoris)' nhồi máu cơ tim hoặc xơ cơ tim biểu hiện suy tim không hồi phục, loạn nhịp rối loạn dẫn truyền.

3) Động mạch não:

- Có thể là triệu chứng thoáng qua: Liệt, mất ngôn ngữ, lú lẫn, quên....

Biến chứng trầm trọng hơn như nhũn não, xuất huyết não, màng não...

4) Động mạch chi:

- Thường là chi dưới cả 2 bên, biểu hiện thiếu máu lúc gắng sức. Cơn đau cách hồi... Cũng có trường hợp hoại tử chi (gặp ở người già).

5) Động mạch chủ bụng:

Thường không biểu hiện triệu chứng. Sờ bụng phát hiện động mạch cứng, đập mạnh, ấn đau. Ít gặp phình động mạch bụng. Có khi gây tắc động mạch ở ngã ba gây thiếu máu chi dưới và liệt dương.

6) Các động mạch màng treo ruột ở bụng: Gây hoại tử tại một đoạn ruột.

7) Động mạch thận: Gây hẹp động mạch và biểu hiện là tăng huyết áp.

8) Động mạch tụy tạng: Gây thiếu máu các đảo Langerhans biểu hiện hội chứng đái tháo đường. Nói chung động mạch nào trong cơ thể cũng có thể bị xơ mỡ cho nên bệnh cảnh rất đa dạng nhưng thường gặp nhất là tim, não, thận, chi.

Liên kết:

Logo quảng cáo