Trang chủ --> H: --> HƯ LAO
Hoàng Kim kỷ niệm 10 năm thành lập
Hoàng Kim kỷ niệm 10 năm thành lập
Tẩm quất Hoàng Kim
Tẩm quất Hoàng Kim
Tẩm quất Hoàng Kim
Tẩm quất Hoàng Kim

tin tức nổi bật

HƯ LAO

 

A. Đại Cương

Hư lao cũng gọi là hư tổn, là trạng thái bệnh lý của cơ thể suy nhược ở nhiều bệnh mạn tính, cũng có thể là một chứng bệnh độc lập như suy nhược cơ thể, chứng suy mòn, lão suy.

Thiên ‘Thông Bình Hư Thực Luận’ (Tố Vấn 28) viết: “Tinh khí đoạt thì tinh bị hư”.

Thiên ‘Điều Kinh Luận’ (Tố Vấn 62) viết: “Dương hư thì ngoại hàn, âm hư thì nội nhiệt”.

Nan thứ 14 (Nan Kinh) nêu lên triệu chứng và phương pháp điều trị chứng Ngũ tổn, cho thấy mối quan hệ hư tổn của ngũ tạng.

Sách ‘Kim Quỹ Yếu Lược’ có nguyên một chương bàn riêng về chứng hư lao, trong đó bàn đến mạch, chú trọng chứng dương hư, đề ra các phương pháp trị như ôn bổ, phù chính khu tà, trừ ứ sinh tân… là những nguyên tắc cơ bản để trị hư lao.

Đời nhà Kim, Nguyên điều trị bệnh hư lao thường dùng phương pháp cam ôn bổ Tỳ, tư âm nhuận Phế, thanh Tâm giáng hỏa và bổ dưỡng Can Thận.

Đời nhà Minh, sách ‘Lý Hư Nguyên Giám’ nêu lên lý luận về chứng lý hư và chú trọng đến ba tạng Phế, Tỳ và Thận.

Đời nhà Thanh, sách ‘Bất Cư Tập’ ngoài các yếu tố nếu trên, còn thêm trường hợp ngoại cảm gây nên hư tổn.

B. Nguyên Nhân

Hư lao là một trạng thái bệnh lý khá phức tạp do nhiều nguyên nhân gây nên sự giảm sút chức năng các tạng phủ sinh ra âm dương khí huyết đều hư nhưng do có sự thiên thắng nên biểu hiện lâm sàng có những thể bệnh khác nhau. Những nguyên nhân chủ yếu có:

+ Tiên thiên bất túc: Yếu tố bẩm sinh, suy yếu, dị dạng từ trong bụng mẹ, dễ mắc cảm nhiễm ngoại tà, tạng Phế bị bệnh trước, từ ngoại cảm dần dần vào nội thương, lúc đầu có thể bị ở một tạng dần dần lan sang các tạng khác, chuyển thành hư lao. Ngoài ra cơ thể suy yếu dễ nhiễm một số bệnh do di truyền: ngũ trì, ngũ nhuyễn từ tuổi nhỏ phát triển thành hư lao. Cũng có khi do sự phát dục kém, khi trưởng thành, thể lực yếu, ốm đau liên miên hoặc sau khi bệnh thể lực yếu, lâu hồi phục, dương khí và âm huyết ngày càng suy dần dần dẫn đến tổn thương ngũ tạng.

b- Mắc bệnh ngoại cảm hay nội thương lâu ngày không được chữa trị tốt dẫn đến chức năng tạng phủ suy yếu mà thành hư lao.

c- Sinh hoạt, làm việc quá sức, ăn uống thiếu điều độ, uống rượu, hút thuốc, nghiện ngập, gây thương tổn tỳ phế, không hóa sinh được tinh chất, không sinh được khí huyết. Nguồn sinh ra khí huyết không đủ, không điều dưỡng được tạng phủ bên trong, không làm đầy phần doanh vệ bên ngoài, lại kèm bị ngoại cảm hoặc phòng dục tùy tiện gây tổn thương Can Thận... đều dẫn đến hư lao.

d- Thất tình (tư tưởng tình cảm thiếu điều hòa) như tức giận nhiều hại can, vui mừng quá độ hại tâm, lo nghĩ nhiều hại Tỳ, buồn phiền hại Phế, kinh sợ hại Thận , đều là nguyên nhân về tâm thần làm âm dương mất cân bằng, khí huyết hư tổn, tinh hư lao.

C- Biện Chứng Luận Trị

Biện chứng về hư lao, các y gia y học cổ truyền thường dựa trên bốn yếu tố cơ bản là Âm, Dương, Khí và Huyết trong cơ thể để chia làm 4 loại: Khí hư, huyết hư, dương hư, âm hư kết hợp với ngũ tạng, trên lâm sàng thường gặp các thể bệnh sau đây:

I- Khí Hư

a- Phế khí hư: Mệt, hơi thở ngắn, lúc nóng lúc lạnh, dễ ra mồ hôi, dễ mắc bệnh ngoại cảm, ho khan, sắc da trắng nhạt, lưỡi nhạt, mạch Nhuyễn, Nhược.

- Biện chứng: Hơi thở ngắn, ra mồ hôi là dấu hiệu Phế khí yếu, bì phu không kín vững. Lúc nóng lúc lạnh: vinh vệ không điều hòa. Dễ cảm, ho khan, thở yếu: dấu hiệu Phế khí hư không bảo vệ được phần biểu. Sắc mặt nhạt, lưỡi nhạt, mạch Nhược: dấu hiệu hư nhược.

Điều trị: Ích khí cố biểu. Dùng bài Bổ Phế Thang gia giảm.

(Trong bài dùng Nhân sâm, Hoàng kỳ bổ dưỡng phế khí; Tang bạch bì, 'I'ử uyển để nhuận Phế, chỉ khái; Thục địa, Ngũ vị tử ích Thận, nạp khí).

Ra mồ hôi nhiều thêm bài Mẫu Lệ Tán để ích khí, cố biểu, liễm hãn. Hoặc thêm Mẫu lệ, Tang diệp để hỗ trợ cho Hoàng kỳ liễm hãn. Khí âm hư: thêm Miết giáp, A giao để liễm bổ Phế âm.

2. Tỳ Khí Hư: Mệt mỏi, ăn ít, tiêu lỏng, sắc mặt vàng nhạt, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng nhuận, mạch Nhược.

Điều trị: Ích khí kiện Tỳ. Dùng bài Sâm Linh Bạch Truâït Tán gia giảm.

(Trong bài dùng Nhân sâm, Bạch truật, Cam thảo để ích khí, kiện Tỳ, hòa trung; Sơn dược, Biển đậu, Liên nhục, Ý dĩ, Bạch linh để kiện Tỳ, trừ thấp, chỉ tả).

Do tỳ khí hạ hãm, tiêu chảy lâu ngày không khỏi hoặc ở phụ nữ khí hư bạch đớì kéo dài hoặc kèm theo sa trực tràng, sa tử cung: dùng bài ‘Bổ Trung Ích Khí Thang’ để bổ khí thăng đề.

Các chứng khí hư nói trên, tuy chủ yếu là do Phế và Tỳ nhưng thực ra 5 tạng đều có thể bị khí hư. Tâm Phế ở cùng vị trí thượng tiêu, nếu Phế khí hư, nặng hơn thì Tâm khí cũng hư (Biểu hiện hồi hộp, thở gấp, nhiều mồ hôi). Nếu Tỳ khí hư quá thì Thận khí cũng hư (biểu hiện dương hư, tiêu chảy không ngừng, chân tay lạnh, mạch Vi). Vì vậy, các chứng khí hư, thời kỳ đầu, nên coi trọng Phế và Tỳ, thời kỳ cuối liên hệ đến Tâm, Thận.

II- Hnyết Hư

+ Tâm huyết hư: Hồi hộp hay quên, mất ngủ, mộng nhiều, sắc mặt tái nhợt kém tươi nhuận, môi lưỡi nhợt, mạch Trầm Tế.

Điều trị: Dưỡng tâm, an thần. Dùng bài Qui Tỳ Thang gia giảm.

(Trong bài, Đảng sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật, Cam thảo để ích khí, kiện tỳ, bồ khí để sinh huyết; Đương qui, Long nhăn, Táo nhân, Viễn chí để dưỡng huyết an thần; Mộc hương, Sinh khương, Đại táo để lý khí hòa trung).

+ Can huyết hư:Váng đầu, hoa mắt, ù tai, sườn đau, bứt rứt, tính nóng nảy, phụ nữ kinh nguyệt không đều, sắc mặt tái sạm, môi lưỡi nhợt, mạch Huyền Tế.

Điều trị: Bổ dưỡng can huyết, hoạt huyết, hóa ứ. Dùng bài Tứ Vật Thang gia vị.

(Trong bài, Đương qui, Thục địa tư bổ âm huyết; Bạch thược dưỡng huyết, hòa can; Xuyên khung điều khí, hoạt huyết).

Chóng mặt, ù tai thêm Nữ trinh tử, Mẫu lệ, Long cốt để dưỡng âm, tiềm dương. Trong người bứt rứt khó ngủ thêm Táo nhân, Viễn chí, Thạch quyết minh để an thần. Bệnh gan đau vùng sườn phải thêm Uất kim, Sài hồ, Hương phụ để sơ can giải uất. Bệnh lâu ngày có triệu chứng huyết ứ như đau cố định, tê chân tay thêm Đào nhân, Hồng hoa, Đơn sâm để hoạt huyết, hóa ứ. Trường hợp khí huyết đều hư dùng "Bát Trân Thang" để song bổ khí huyết.

Tuy chỉ giới thiệu tâm huyết và can huyết hư là thường gặp trên lâm sàng vì 'Tâm chủ huyết’, ‘Can tàng huyết’ nên trực tiếp liên quan đến huyết nhưng đều có liên quan đến các tạng khác. Nếu Phế, Thận huyết hư thường thuộc về âm hư vì âm huyết đồng nguyên. Tỳ là nguồn gốc của sinh hóa khí huyết cho nên bổ huyết cũng phải chú ý kiện tỳ. Huyết hư có thể do nguồn sinh của nó bị bất túc hoặc do xuất huyết quá nhiều, vì vậy trong điều trị Tâm huyết hư và Can huyết hư đều dùng phương pháp bổ Tỳ, ích khí, sinh huyết như bài Qui Tỳ Thang (bao gồm cả huyết hư của tạng tỳ bên trong).

III- Dương Hư

1- Tỳ Dương Hư: Sợ lạnh, chân tay lạnh, mệt mỏi, lúc gặp lạnh dễ đau bụng, tiêu chảy, sắc mặt vàng sạm hoặc tái nhợt, lưỡi nhợt, bệu, rêu trắng, mạch Trì, Nhược hoặc Tế Nhược.

Điều trị: Ôn trung, kiện tỳ. Dùng bài Phụ Tử Lý Trung Thang gia giảm.

(Trong bài, Chế Phụ tử cay nóng trợ dương; Gừng nướng ôn trung tán hàn; Đảng sâm, Bạch truật, Chích thảo bổ khí, kiện tỳ).

Đau bụng tiêu chảy kéo dài, thêm Ích trí nhân, Nhục đậu khấu để ôn thận, chỉ tả. Ăn dễ nôn thêm Khương Bán hạ, Trần bì, Bào khương.

2. Thận Dương Hư: Sợ lạnh, chân tay lạnh, lưng gối nhức mỏi, trời lạnh nhức nhiều, di tinh, liệt dương, tiểu nhiều, nước tiểu trong hoặc tiểu gấp khó cầm, sắc mặt tái nhợt, giọng nói yếu, có thể hơi ngắn, hụt hơi, thân lưỡi bệu, sắc nhợt, rêu trắng, mạch Trầm Trì.

Điều trị: Ôn bổ thận dương, dưỡng tinh huyết. Dùng bài Hữu Qui Hoàn gia giảm.

(Trong bài, Chế Phụ tử, Nhục quế ôn hổ thận dương, Thỏ ti tử, Lộc giác giao ôn thận (trị di tinh, liệt dương, tiểu nhiều), Thục địa, Sơn dược, Sơn thù, Đỗ trọng ôn thận tráng dương kiêm bổ thận tinh; Đương qui, Kỷ tử bổ huyết.

Thận tả bỏ Đương qui, Kỷ tử thêm Bổ cốt chỉ, Nhục đậu khấu, Kha tử nhục để ôn thận, chỉ tả. Khí hư nặng thêm Nhân sâm, Bạch truật, Hoàng kỳ, Chích thảo.

Ngoài 2 thể bệnh dương hư trên đây, trên lâm sàng nội khoa thường gặp ngoài những triệu chứng dương hư có thêm triệu chứng chức năng của tâm như hồi hộp, khó thở, hay quên, đau ngực... nhưng hay kết hợp với thận dương hư, Phế dương hư hoặc kèm theo phế khí hư, ít khi biện chứng độc lập.

IV. Âm Hư

1- Phế Âm Hư: Ho khan, ho có máu, họng khô, miệng khô, có khi khàn giọng, người gầy, da nóng, hay sốt về chiều hay về đêm, mồ hôi trộm gò máù hồng, lưỡi đỏ, khô, ít rêu, mạch Tế Sác.

Điều trị: Dưỡng âm, thanh nhiệt, nhuận phế, chỉ khái. Dùng bài Sa Sâm Mạch Đông Thang gia giảm.

(Trong bài, Sa sâm, Mạch môn, Ngọc trúc tư dưỡng phế âm; Tang diệp, Thiên hoa phấn, Cam thảo thanh phế, sinh tân).

Sốt về chiều và đêm thêm Địa cốt bì, Ngân sài hồ, Miết giáp. Nhiều mồ hôi trộm: thêm Sinh hoàng kỳ, Mẫu lệ, Lá dâu, Cốc nha, Phù tiểu mạch. Ho ra máu thêm A giao, Trắc bá diệp (sao cháy), Hoa hòe...

2- Tâm Âm Hư: Hồi hộp, khó ngủ, hay quên, bứt rứt, ra mồ hôi trộm, miệng lở, lưỡi loét, gò má đỏ, sốt về chiều, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Tế Sác.

Điều trị: Tư âm, thanh nhiệt, dưỡng Tâm, an thần. Dùng bài Thiên Vương Bổ Tâm Đơn gia giảm.

(Trong bài, Sinh địa, Thiên môn, Mạch môn, Huyền sâm tư dưỡng tâm âm; Đơn sâm, Đương qui, Viễn chí, Táo nhân, Bá tử nhân, Phục thần dưỡng tâm an thần; Nhân sâm bổ tâm khí; Ngũ vị tử liễm tân dịch; Cát cánh dẫn thuốc đi lên).

Hỏa vượng bứt rứt, miệng lở loét: thêm Hoàng liên, Mộc thông, Trúc diệp. Sốt về chiều và đêm thêm Ngân Sài hồ, Địa cốt bì.

3. Tỳ Vị Âm Hư: Miệng khô, môi khô, chán ăn, thích uống nước mát, táo bón nặng, có thể nôn khan, mặt đỏ, lưỡi thon, khô, đỏ, có điểm loét hoặc hình địa đồ, mạch Tế Sác.

Điều trị: Tư dưỡng Tỳ Vị. Dùng bài Ích Vị Thang gia giảm.

(Trong bài, Sa sâm, Mạch môn, Sinh địa, Ngọc trúc tư dưỡng vị âm. Thêm đường phèn để dưỡng vị, hòa âm).

Táo bón uống với mật ong hoặc bột chuối chín. Miệng lở loét, thêm Thạch hộc, Cát căn để tư âm, thanh nhiệt.

4. Can Âm Hư: Đau đầu, chóng mặt, ù tai, mắt khô, sợ ánh sáng, người nóng nảy, dễ giận hoặc gân cơ giật, lưỡi kho,â đỏ tía, mạch Huyền Tế Sác.

Điều trị: Tư âm, tiềm dương. dùng bài Bổ Can Thang gia giảm.

(Trong bài, bài Tứ Vật (Qui, Thục, Thược, Khung) để dưỡng huyết, hòa can; Táo nhân, Mộc qua, Mạch môn, Cam thảo sống tư dưỡng can âm).

Đau đầu, chóng mặt, ù tai hoặc gân cơ giật thêm Thạch quyết minh, Cúc hoa, Câu đằng để bình can, tiềm dương. Mắt khô, mắt mờ, sợ ánh sáng thêm Câu kỷ tử, Nữ trinh tử, Thạch quyết minh để dưỡng can, minh mục. Tính tình nóng nay, táo bón, tiểu vàng thêm Long đởm thảo, Hoàng cầm, Chi tử để thanh can, tả hỏa.

5. Thận Âm Hư: đau lưng, mỏi gối, chân yếu, má đỏ, ù tai, dễ rụng tóc, lưỡi đỏ thẫm, khô bóng, mạch Trầm Tế.

Điều trị: Tư bổ thận âm. Dùng bài Đại Bổ Âm Hoàn gia giảm.

(Trong bài, Quy bản, Thục địa, Tri mẫu, Hoàng bá tư âm thanh nhiệt).

Di tinh hoặc tiểu nhiều thêm Long cốt, Mẫu lệ, Kim anh tư, Liên tu để cố thận sáp tinh.

Tuy các tạng phủ mắc bệnh đều có chứng âm hư nhưng trên lâm sàng can thận âm hư thường gặp nhất.

Tóm lại, trong bài chúng ta chia chứng hư lao ra 4 hội chứng bệnh lý với nhiều thể bệnh khác nhau nhưng trên lâm sàng, bệnh lý thường kết hợp nên trong lúc biện chứng cần chú ý. Thông thường chứng hư lao, thời gian mắc bệnh còn ngắn chủ yếu biểu hiện là khí hư. huyết hư hoặc khí huyết đều hư. Nếu thời gian mắc bệnh kéo dài hoặc bệnh nặng phần lớn tổn thương đến âm dương hoặc âm hư, dương hư hoặc âm dương đều hư. Và giữa âm dương và khí huyết có quan hệ mật thiết nên bệnh lý thường cũng lẫn lộn

Lượt xem : 1146 Người đăng : admin
Tags :

Bình luận

Ý kiến độc giả

Liên kết:

Logo quảng cáo