Trang chủ --> H: --> HỒI HỘP
Hoàng Kim kỷ niệm 10 năm thành lập
Hoàng Kim kỷ niệm 10 năm thành lập
Tẩm quất Hoàng Kim
Tẩm quất Hoàng Kim
Tẩm quất Hoàng Kim
Tẩm quất Hoàng Kim

tin tức nổi bật

HỒI HỘP

 

( Tâm Quý)

Hồi Hộp là một chứng trạng tự cảm thấy trong Tâm hồi hộp không yên, tục gọi là Tâm Khiêu. Sách Hồng Lô Điểm Tuyết viết: “Chứng Quý là chỉ vùng Tâm đột ngột rung động không yên, sợ sệt, trong Tâm trằn trọc không yên, sợ sệt như có người muốn bắt...”. Sách ‘Y Học Chính Truyền’ viết: "Chứng Kinh quý là chỉ đột ngột như sợ hãi, hồi hộp, trong Tâm không yên và có cơn từng lúc. Chứng Chinh xung là chỉ trong Tâm sợ sệt dao động không yên, có cơn liên tục"...

Theo những quan điểm trên, nhân tố gây bệnh có khi do sợ hãi gây nên, có khi không do sợ hãi gây ra.

Tâm hồi hộp lúc có lúc không, gọi là Kinh quý, bệnh tương đối nhẹ. Không do hãi mà phát sinh, trong Tâm dao động không yên và cơn liên tục, gọi là Chinh xung, bệnh tình khá nặng. Nhưng chứng trạng lâm sàng, đều coi trong Tâm hồi hộp không yên là chính, gọi là Tâm quý.

Các loại rối loạn thần kinh thực vật và các loại bệnh tim dẫn đến nhịp tim không đều trong y học hiện đại, đều có thể xuất hiện chứng trạng Tâm quý.

Nguyên Nhân

1 . Tâm Thần Không Yên: Sợ hãi đột ngột có thể dẫn đến tâm thần không yên. Thiên ‘Cử Thống Luận’ (Tố Vấn 39) viết: "Kinh thì Tâm không nơi dựa, thần không chốn về, lo lắng không được yên cho nên khí loạn" và "sợ thì khí nén xuống", "sợ thì thần khiếp".

Kinh thì khí loạn, thần chí không yên cho nên Tâm kinh, thần dao động, hồi hộp không yên. Sợ (khủng) thì thương Thận, Thận hư yếu không giao thông được với Tâm khiến cho Tâm hồi hộp không yên.

Ngoài ra, giận dữ đột ngột khí nghịch khiến cho Can mất chức năng điều đạt. Bệnh Can liên lụy đến Tỳ, Tỳ mất chức năng vận hóa, thì tinh vi thủy cốc tụ lại thành đờm. Khí uất lại có thể hóa hỏa, đờm hỏa quấy rối Tâm thần cũng dẫn đến Tâm quý không yên.

2. Tâm Huyết Bất Túc: Bị bệnh lâu ngày thân thể suy yếu hoặc mất máu quá nhiều, hao thương tâm huyết; Hoặc tư lự quá độ, mệt nhọc làm thương Tỳ, Tỳ mất chức năng kiện vận làm cho nguồn tạo nên huyết dịch bất túc, Tâm mất sự nuôi dưỡng, thần không tiềm tàng cho nên Tâm hồi hộp không yên. Sách ‘Đan Khê Tâm Pháp’ viết: "Chinh xung là do huyết hư, chinh xung liên tục, phần nhiều là do thiếu huyết”.

3. Âm Hư Hỏa Vượng: Mắc bệnh lâu ngày, cơ thể suy nhược hoặc do bệnh nhiệt làm thương âm... đều có thể dẫn đến Thận âm khuy tổn, tâm hỏa vọng động gây nên Tâm hồi hộp không yên.

4. Phong Thấp Xâm Phạm: thiên ‘Tý Luận’ (Tố Vấn 43) viết: "Bị chứng Mạch tý không khỏi lại bị nhiễm ngoại tà, ẩn náu trong Tâm" và “Chứng Tâm tý làm cho mạch máu không thông". Nói lên tà khí phong hàn thấp phạm huyết mạch ảnh hưởng tới Tâm ở trong, Tâm mạch bị nghẽn, doanh huyết vận hành không thông cho nên hồi hộp không yên.

5. Dương Khí Suy Nhược: Sau khi bị bệnh lâu ngày, dương khí suy không làm ấm áp Tâm mạch, Tâm dương không mạnh cho nên hồi hộp không yên. Nếu dương hư nước ứ đọng thành chứng ẩm, ẩm tà phạm lên trên cũng làm cho hồi hộp không yên. Sách ‘Thương Hàn Minh Lý Luận’ viết: "Nói khí hư dương là dương khí hư nhược, dưới Tâm rỗng không động ở trong mà thành hồi hộp. Nếu ẩm ứ đọng là do thủy đọng ở dưới Tâm... Tâm không được yên sẽ thành Tâm quý".

Triệu Chứng Lâm Sàng

+ Tâm Thần Không Yên: Tiâm hồi hộp, dễ kinh sợ, nằm ngồi không yên, ít ngủ hay mê, nói chung lưỡi và mạch bình thường hoặc mạch thấy Hư Sắc.

Biện chứng: Hãi thì khí loạn, sợ thì khí hạ, đến nỗi Tâm không thể chứa thần, phát sinh chứng tim hồi hộp, ít ngủ hay mê. Mạch Hư Sắc là dấu hiệu tâm thần không yên. Bệnh nhẹ thì lúc phát lúc ngừng; Loại nặng thì Tâm sợ sệt, thần rối loạn, hồi hộp không yên, không tự chủ được.

Điều trị: Trấn kinh an thần. Dùng bài An Thần Định Chí Hoàn gia giảm.

(Trong bài có Nhân sâm, Long xỉ để bổ khí trấn kinh; Phục thần, Viễn chí, Xương bồ an thần hóa đờm làm thuốc hỗ trợ).

Cũng có thể dùng các vị như Từ thạch, Mẫu lệ, Táo nhân, Bá tử nhân để trấn kinh an thần. Nếu Tâm hồi hộp mà phiền, ăn kém, muốn nôn, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Hoạt Sắc là bệnh kiêm có đờm nhiệt quấy rối ở trong, Vị mất chức năng hòa giáng, có thể thêm Bán hạ, Trần bì, Trúc nhự. Nếu sắc mặt kém tươi, mệt mỏi, chất lưỡi nhạt, có thể luận trị theo thể Tâm huyết bất túc.

2) Tâm Huyết Bất Túc: Tim hồi hộp, choáng váng, sắc mặt kém tươi, móng chân tay nhạt, tay chân không có sức, chất lưỡi đỏ nhạt, mạch Tế.

Biện chứng: Tâm chủ huyết mạch, vinh nhuận ra mặt, huyết hư không nuôi được Tâm gây nên chứng Tâm quý, không tưới nhuận lên đầu mặt gây ra chóng mặt và sắc mặt không tươi. Huyết hư không làm ấm áp tay chân cho nên móng chân xanh nhợt, tay chân không có sức. Chất lưỡi đỏ nhạt, mạch Tế... đều là dấu hiệu khí huyết bất túc.

Điều trị: Ích khí bổ huyết, dưỡng tâm an thần. Dùng bài Quy Tỳ Thang gia giảm.

(Trong bài có Sâm, Kỳ, Truật, Thảo để ích khí kiện Tỳ, tăng cường nguồn sinh ra huyết; Đương quy, Long nhãn nhục để dưỡng huyết, Táo nhân, Viễn chí để an thần, Mộc hương hành khí, khiến cho bổ mà không bị trệ).

Nếu tâm động hồi hộp mà mạch Kết Đại là huyết không nuôi Tâm, kèm theo Tâm dương mạnh, huyết dịch tuần hành không thư sướng gây nên, cho uống Chích Cam Thảo Thang gia giảm để dưỡng Tâm thông mạch theo phép song bổ cả khí và huyết.

3) Âm hư hỏa vượng: Hồi hộp không yên, tâm phiền, ít ngủ, chóng mặt, hoa mắt, tai ù mỏi lưng, lưỡi đỏ ít rêu, mạch Tế Sác.

Biện chứng: Thận âm bất túc, Tâm hỏa vượng, gây nên chứng tâm quý, phiền táo, ít ngủ, âm suy thì ở dưới mỏi lưng, Dương quấy rối ở trên thì hoa mắt, chóng mặt ù tai; chất lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Tế Sác... đều là đặc trưng của âm hư hỏa vượng.

Điều trị: Dục âm thanh hỏa. Dùng bài Hoàng Liên A Giao Thang gia giảm.

(Trong bài có Hoàng liên, Hoàng cầm để thanh Tâm hỏa; A giao, Thược dược, Kê tử hoàng để nuôi âm huyết). Thêm Đan sâm, Trân châu mẫu v.v... để tăng sức an thần, bớt kinh sợ. Nếu âm hư mà hỏa không vượng, có thể dùng Thiên Vương Bổ Tâm Đơn.

(4) Phong Thấp Xâm Phạm: Hồi hộp, hơi thở ngắn, ngực đau hoặc khó chịu, hai gò má đỏ tía, thậm chí môi và móng tay chân tím tái hoặc ho suyễn khạc ra máu, chất lưỡi xanh nhợt hoặc có nốt ứ huyết, mạch Tế hoặc Kết Đại.

Biện chứng: Bệnh Tý chữa không khỏi, truyền vào trong Tâm làm cho huyết mạch bị nghẽn, Tâm mất sự nuôi dưỡng nên hồi hộp không yên. Khí trệ huyết ứ, Tâm dương bị uất, khiến cho ngực khó chịu hoặc ngực đau và hơi thở ngắn. Nếu chứng Tý làm nghẽn lạc mạch, Phế mất túc giáng thì ho suyễn, nặng hơn thì tổn thương Phế lạc cho nên khạc ra máu. Hai gò má đỏ tía hoặc môi và móng tay chân tím tái, lưỡi có nốt ứ huyết, mạch Kết Đại đều là dấu hiệu Tâm dương không mạnh, ứ huyết tích đọng gây nên.

Điều trị: Hoạt huyết hóa ứ, trợ dương thông mạch. Dùng bài Đào Nhân Hồng Hoa Tiễn gia giảm.

(Dùng Đào nhân, Hồng hoa, Đan sâm, Đương quy để hoạt huyết hóa ứ là chủ yếu; Huyền hồ, Xuyên khung, Hương phụ làm thuốc hỗ trợ).

Có thể thêm Quế chi, Cam thảo để thông Tâm dương; Long cốt, Mẫu lệ để trấn tâm thần. Trong bài có Sinh địa, nếu muốn tập trung vào thông Dương thì không nên dùng. Nếu ho suyễn khạc ra máu, đơn thuốc trên bỏ Xuyên khung, Hương phụ, thêm Tô tử, Trầm hương, Sâm Tam thất để thuận khí chỉ huyết.

(5) Dương Khí Suy Nhược: Tim hồi hộp không yên, thở suyễn, ngực khó chịu, thân thể ớn lạnh, chân tay lạnh, phù toàn thân, tiểu không lợi, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch Vi Tế hoặc Kết Đại.

Biện chứng: Dương khí trong ngực bất túc, thủy khí bốc lên tâm gây nên hồi hộp, ngực khó chịu mà thở suyễn; thậm chí Thận dương suy vi không làm ấm áp tay chân, cho nên người ớn lạnh, tay chân lạnh. Vì dương hư nên nước trào lên, Bàng quang khí hóa không lợi, cho nên phù toàn thân, tiểu không lợi. Chất lưỡi nhợt bệu, rêu lưỡi trắng, mạch Vi Tế hoặc Kết Đại, đều là dấu hiệu Tâm Thận dương suy, huyết mạch ngưng trệ gây nên.

Điều trị: Ôn vận dương khí, hành thủy giáng nghịch. Dùng bài Chân Vũ Thang gia giảm.

(Trong bài dùng Phụ tử, Sinh khương chủ yếu để ôn dương tán hàn, phối hợp với Phục linh, Bạch truật kiện Tỳ lợi thủy làm thuốc hỗ trợ).

Có thể thêm Nhục quế, Trạch tả, Xa tiền để tăng cường sức ôn Thận hành thủy. Nếu suyễn không nằm được có thể thêm Hắc Tích Đan để ôn phận nạp khí và bình suyễn.

Bệnh Án Hồi Hộp Huyết Áp Cao

(Trích trong ‘Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư’)

Dương X nam, 53 tuổi. Thường hồi hộp sợ sệt, chóng mặt, hoa mắt, mất ngủ, ba tháng nay bệnh nặng thêm, có lúc sợ hãi, hồi hộp, nặng hơn thì hồi hộp không ngừng, nhiều đờm, kém ăn.

Khám: Thể trạng béo bệu, nhịp tim đều, mỏm tim đập có lực, vùng hai chủ động mạch có tiếng vang kim loại, huyết áp 160/100mgHg, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Huyền.

Chẩn đoán: Tâm quý (bệnh Cao huyết áp).

Điều trị: Bình Can ôn đởm, hóa đờm, an thần. Dùng: Khương bán hạ 12g, Trần bì 6g, Chỉ thực (sao) 6g, Trúc nhự 12g, Phục linh 12g, Long cốt (sắc trước) 20g, Mẫu lệ (sắc trước) 40g, Chế nam tinh 6g, Chích cam thảo 4g, Từ Chu Hoàn 12g (uống với thuốc sắc). Sau khi uống liên tục 10 thang, các chứng kinh sợ hồi hộp khỏi hết, thần trí ổn định.

- Nhận xét. Bệnh này do sợ hãi gây nên đến nỗi Tâm thần không yên, Can dương cùng với đờm quấy rối xuất hiện các chứng hồi hộp, chóng mặt, mất ngủ, đờm nhiều, kém ăn, do đó dùng Ôn Đởm Thang thêm Long cốt, Mẫu lệ, Từ Chu Hoàn để trấn tâm an thần, tiềm dương, hóa đờm.

Bệnh Án Chinh Xung

(Trích trong ‘Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư’).

Tôn X, nữ, 39 tuổi.

Bệnh sử: Khi Tâm quý nặng thì hồi hộp, bệnh đã 6 năm, nửa tháng nay liên tục bị hồi hộp, chóng mặt, hoa mắt, miệng khô, họng ráo, tai ù, mỏi lưng, đêm ít ngủ.

- Khám: Thể trạng cao gầy, hình dung tiều tụy, nhịp tim đều, 80 lần/phút. Hai bên Phổi sáng, Gan dưới hạ sườn 1 khoát, mềm, không đau, chất lưỡi đỏ, mạch Tế Sác.

Chẩn đoán: Tâm quý (bệnh thần kinh).

Điều trị: Tư âm thanh hỏa, trấn tâm an thần. Cho uống: Thục địa 16g, Sơn thù 12g, Sinh địa 16g, Xuyên liên 4g, Kỷ tử 12g, Phục thần 16g, Từ thạch (sắc trước) 40g, Đương qui 12g. Sau khi uống 7 thang, hết triệu chứng chinh xung. Sau khi uống hết 10 thang, chứng Tâm quý giảm rõ rệt.

Nhận xét: Bệnh này do Thận âm bất túc không giúp lên Tâm hỏa ở trên; Tâm hỏa vượng thịnh không giáng xuống được đến nỗi gây nên chứng tâm quý, chinh xung. Điều trị: nên tư Thận âm, thanh Tâm hỏa. Là một loại hình gặp nhiều trong lâm sàng.

Bệnh Án Tâm Quý

(Trích trong ‘Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư’).

Chu X, nam, 18 tuổi. Có bệnh sử thấp tim từ nhỏ, năm gần đây hễ cử động nặng là hồi hộp không yên.

- Khám thấy sắc mặt tối sạm, môi và móng tay chân tím tái nhẹ, vùng trái ngực hơi gồ, mỏm tim ở rãnh sườn 6 về phía ngoài 1,5cm có rung động, có tiếng thổi tâm thu, nhịp tim không đều, 84 lần/phút, Gan dưới hạ sườn 1 khoát, chi dưới hơi phù, chất lưỡi có nốt ứ huyết nhỏ, rêu lưỡi mỏng, mạch Kết Đại, XQ lộ rõ Phế động mạch, tâm thất trái dãn to hướng bên phải, hai Phổi có hình tụ huyết nhẹ. Điện tâm đồ: Trục xoay bên trái, Tâm thất trái dãn to.

Chần đoán: Bệnh Tâm Tý (thấp tim, hẹp và hở van hai lá)

Phép trị: Hoạt huyết hóa ứ, ích khí thông dương, dưỡng tâm trấn thần. Cho uống Đào nhân 12g, Quế chi 12g, Hồng hoa 6g, Đảng sâm 16g, Đan sâm 16g, Phục thần 16g, Táo nhân 6g, Long cốt (sắc trước) 20g, Mẫu lệ (sắc trước) 40g. Sau khi uống 10 thang, chứng Tâm quý giảm rõ rệt, nhịp tim 78 lần/phút.

Nhận xét: Bệnh Tâm Tý, mạch không thông, khí huyết bị nghẽn thì trệ mà thành ứ, làm cho Tâm không được nuôi dưỡng, do đó sử dụng phép hoạt huyết hóa ứ. Tâm dương không mạnh mà thấy mạch Kết Đại, cho nên dùng phép ích khí không dương; lại thêm các vị dưỡng Tâm trấn thần.

Lượt xem : 981 Người đăng : admin
Tags :

Bình luận

Ý kiến độc giả

Liên kết:

Logo quảng cáo