Trang chủ --> Kinh tế học trong Quản lý công --> 2. Trình bày các mô hình kinh tế thị trường? Hãy so sánh vai trò của Chính phủ trong mỗi loại mô hình đó?
Hoàng Kim kỷ niệm 10 năm thành lập
Hoàng Kim kỷ niệm 10 năm thành lập
Tẩm quất Hoàng Kim
Tẩm quất Hoàng Kim
Tẩm quất Hoàng Kim
Tẩm quất Hoàng Kim

tin tức nổi bật

2. Trình bày các mô hình kinh tế thị trường? Hãy so sánh vai trò của Chính phủ trong mỗi loại mô hình đó?

2. Trình bày các mô hình kinh tế thị trường? Hãy so sánh vai trò của Chính phủ trong mỗi loại mô hình đó? Đánh giá vai trò của Chính phủ Việt Nam trong giai đoạn 1975-1986 và từ năm 1986 đến nay.

[ KINH TẾ CHỈ HUY (Mệnh lệnh, Kế hoạch hóa tập trung): là nền kinh tế trong đó chính phủ chỉ huy bằng cách quyết định các phương hướng phát triển, các cân đối lớn, các nhiệm vụ sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu thụ. Không giống như trong nền kinh tế có kế hoạch, nhà nước không định ra những chỉ tiêu cụ thể cho nền kinh tế về sản xuất và phân phối. Nền kinh tế ở các nước, bất luận là xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa, trong hoàn cảnh chiến tranh thường là KTCH, do hoạt động trong những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh, do những yêu cầu tối cấp thiết phải động viên cao độ để đảm bảo cho chiến tranh. Trong điều kiện đó, không thể để thị trường tự do điều tiết một cách tự phát toàn bộ hay một phần lớn nền kinh tế cũng như chưa thể quản lí nền kinh tế theo kế hoạch. Trong điều kiện hoà bình, nhiều nước cũng theo nền KTCH bằng cách hạn chế tác động của cơ chế thị trường, thực chất đó cũng là nền KTCH. Ưu điểm: Tất cả các vấn đề đều do nhà nước thống nhất, tập trung quản lý nên các vấn đề kinh tế lớn được giải quyết một cách dễ dàng hơn như xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng và củng cố an ninh quốc phòng, xây dựng các công trình phúc lợi công cộng; quan hệ giữa con người với nhau bình đẳng, bác ái; hạn chế phân hóa giàu ngèo và đảm bảo sự công bằng xã hội. Hạn chế: Bộ máy quản lý cồng kềnh, quan liêu, bao cấp; kế hoạch sát với thực tế; người sản xuất và người tiêu dùng không có quyền tự do lựa chon nên tính năng động và chủ động không cao, chậm đổi mới công nghệ; Phân phối mang tính chất bình quân nên không kích thích người lao động, khai thác và sử dụng nguồn lực khan hiếm kém hiệu quả ]

KINH TẾ THỊ TRƯỜNG: là một thị trường mà không có sự can thiệp kinh tế và quy định của nhà nước, ngoại trừ việc thực thi các hợp đồng tư nhân và quyền sở hữu tài sản. Thị trường tự do ngược lại với thị trường có kiểm soát, trong đó nhà nước trực tiếp quy định hàng hoá, dịch vụ và lao động có thể được sử dụng, định giá giá cả, hoặc phân phối như thế nào, hơn là dựa vào cơ chế sở hữu tư nhân. Những người ủng hộ thị trường tự do về mặt truyền thống xem thuật ngữ này ngụ ý rằng các phương tiện sản xuất là thuộc tư nhân, không phải thuộc kiểm soát của nhà nước. Đây là cách sử dụng đương đại cụm từ "thị trường tự do" bởi các nhà kinh tế và văn hóa đại chúng; thuật ngữ này trong lịch sử đã có các cách sử dụng khác. Một nền kinh tế thị trường tự do là một nền kinh tế nơi mà tất cả các thị trường bên trong nó không được kiểm soát bởi các bên khác hơn so với những người tham gia trên thị trường. Ở dạng thuần khiết nhất của nó chính phủ đóng một vai trò trung lập trong việc quản lý và điều ban hành pháp luật về hoạt động kinh tế không giới hạn và cũng không tích cực thúc đẩy nó (ví dụ như điều tiết các ngành công nghiệp cũng như trợ cấp cung cấp cho các doanh nghiệp cho phép một mình bảo vệ họ khỏi áp lực thị trường nội / ngoại ). Một nền kinh tế như vậy dưới hình thức cực đoan nhất của nó không tồn tại trong nền kinh tế phát triển, tuy nhiên những nỗ lực tự do hóa nền kinh tế hoặc nỗ lực làm cho nó "tự do hơn" để hạn chế vai trò của chính phủ theo cách như vậy. Lý thuyết này cho rằng trong một thị trường lý tưởng tự do, quyền sở hữu được trao đổi một cách tự nguyện trao đổi ở một mức giá được thỏa thuận chỉ bằng sự đồng ý lẫn nhau của người bán và người mua. Theo định nghĩa, người mua và người bán không ép buộc lẫn nhau, theo nghĩa là họ có được quyền sở hữu của nhau mà không sử dụng vũ lực, đe dọa của lực lượng vật chất, hoặc gian lận, cũng không phải là họ bị cưỡng chế do bên thứ ba (như của chính phủ thông qua các khoản thanh toán chuyển giao)và họ tham gia vào thương mại đơn giản chỉ vì họ đều đồng ý và tin rằng những gì họ đang nhận được là giá trị nhiều hơn hoặc càng nhiều càng tốt những gì họ bỏ đi. Giá là kết quả của các quyết định mua bán hàng loạt như được mô tả bởi các lý thuyết về cung và cầu.

Ưu điểm: Người sản xuất và người tiêu dùng được tự do lựa chọn nên tính năng động và tính chủ động sáng tạo cao hơn, thường xuyên đổi mới công nghệ và kích thích nâng cao năng xuất, chất lượng hiệu quả trong sản xuất kinh doanh; Khai thác và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hạn chế: Coi lơi nhuận là trên hết nên gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường, hệ thống sinh thái bị phá vỡ; Mâu thuẫn ngày càng cao giữa các mối quan hệ trong nền kinh tế với mối quan hệ truyền thống, tệ nạn xã hội nảy sinh, phân hóa giàu ngèo và bất công xã hội tăng, các nhu cầu công cộng xã hội khó được thực hiện, chịu nhiều rủi ro

KINH TẾ THỊ TRƯỜNG HỖN HỢP: chủ trương phải kết hợp hai mặt "bàn tay vô hình" của Xmit (A. Smith) và Thuyết cân bằng tổng quát với "bàn tay của nhà nước". Phải điều hành một nền kinh tế không có cả chính phủ lẫn thị trường thì cũng như định "vỗ tay bằng một bàn tay". Cơ chế thị trường xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế: cái gì? như thế nào? cho ai? Nhưng "bàn tay vô hình" cũng có những khuyết tật và đưa đến những sai lầm; cho nên cần "bàn tay hữu hình" của chính phủ thông qua những chính sách và biện pháp thuế khoá, chi tiêu (đầu tư, tín dụng...), lãi suất, thanh toán chuyển khoản và kiểm soát nền kinh tế. Bằng những biện pháp ấy, nhà nước thực hiện các chức năng: định ra khuôn khổ pháp luật, điều tiết thị trường, bảo đảm sự công bằng, ổn định nền kinh tế vĩ mô, vv. Nhưng "bàn tay hữu hình" cũng có những khuyết tật của nó, do chính phủ có những nhận định sai lầm và đưa ra những quyết định can thiệp trái với sự vận động khách quan của thị trường. Cho nên phải kết hợp cả hai mặt và hình thành nên nền "kinh tế hỗn hợp". Kinh tế hỗn hợp cho rằng do kết quả hoạt động của nhà nước tư sản, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hiện đại không còn là nền kinh tế tư nhân nữa, mà là sự kết hợp hai khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước bổ sung cho nhau thành một nền "kinh tế hỗn hợp". Khu vực nhà nước đã mất tính chất tư bản chủ nghĩa xã hội. Sự kiểm soát nền kinh tế do nhà nước và các cơ quan tư nhân thực hiện là nhằm mục đích "nâng cao phúc lợi xã hội của nhân dân". Theo thuyết này, nhà nước tư sản có khả năng xoá bỏ một phần những mâu thuẫn nảy sinh trong nền kinh tế, giảm dần và đi đến không có khủng hoảng và bảo đảm một sự phát triển nhịp độ cao và ổn định. Thuyết này đưa ra những biện pháp kinh tế - xã hội của nhà nước tư sản, của kinh tế tư bản nhà nước trong chủ nghĩa tư bản. Ở đây, hai khu vực tư bản tư doanh và kinh tế nhà nước hợp thành một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thống nhất, trong đó vai trò quyết định là thuộc các tổ chức kinh tế tài chính trong tổ chức độc quyền mạnh. Mô hình này phát huy hiệu quả của các nhân tố chủ quan như các quy luật của thị trường lại vừa coi trọng các nhân tố chủ quan như vai trò của chính phủ. Tuy nhiên còn tùy vào từng trường hợp của mỗi quốc gia mà mà vận dụng vai trò của chính phủ và thị trường cho phù hợp.

* So sánh vai trò của Chính phủ trong mỗi loại mô hình:

            Kinh tế

chỉ huy  Kinh tế

thị trường tự doKinh tế thị trường

 hỗn hợp

Sản xuất cái gì   Do Nhà nước

quyết định         Do cung - cầu thị trường quyết định        Do cung-cầu thị trường có sự điều chỉnh của NN

Sản xuất cho ai  Do Nhà nước

quyết định         Do cung - cầu thị trường quyết định        Do thị trường và NN quyết định

Sản xuất như thế nào     Do Nhà nước

quyết định         Do cung - cầu thị trường quyết định        Do thị trường quyết định có sự điều tiết của NN

 

 

* Đánh giá vai trò của Chính phủ Việt Nam trong giai đoạn 1975-1986 và từ năm 1986 đến nay:

 

1. Giai đoạn 1975 – 1986: Đây là thời kỳ mà Chính phủ áp dụng mô hình kinh tế chỉ huy (kế hoạch hóa tập trung)

             Sau khi miền Nam Việt Nam được hoàn toàn giải phóng (năm 1975) và đất nước thống nhất (năm 1976), bắt đầu ngay việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980). Kế hoạch này có nhiều điểm duy ý chí nên phần lớn chỉ tiêu đều không đạt. Sản xuất đình trệ, tăng trưởng chỉ đạt 0,4 %/ năm (kế hoạch là 13-14 %) trong khi tỷ lệ tăng dân số hàng năm trên 2,3 %. Tình trạng thiếu lương thực diễn ra gay gắt, năm 1980 phải nhập 1,576 triệu tấn lương thực. Ngân sách thiếu hụt lớn, giá cả tăng hàng năm 20 %, nhập khẩu nhiều gấp 4-5 lần xuất khẩu. Nhà nước thiếu vốn đầu tư cho nền kinh tế, nhiều công trình phải bỏ dở, hàng tiêu dùng thiết yếu thiếu trầm trọng.

Đại hội IV ĐCS VN đã quyết định cải tạo XHCN trong cả nước với mục tiêu lớn: xây dựng chế độ làm chủ tập thể và sản xuất lớn. Do các mục tiêu đề ra quá lớn nên trong kế hoạch 5 năm lần thứ III (1981-1985) nền kinh tế thiếu cân đối và lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Sản xuất đình trệ thể hiện trên tất cả các lĩnh vực. Nạn lạm phát tăng nhanh, đầu những năm 80 tăng khoảng 30-50 % hàng năm, cuối năm 1985 lên đến 587,2 % và siêu lạm phát đạt đến đỉnh cao vào năm 1986, với 774,7 %. Đời sống nhân dân hết sức khó khăn.

Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấpds

Trước đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế của Chính phủ là cơ chế kế hoạch hóa tập trung với những đặc điểm chủ yếu là:

Thứ nhất, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chi tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương… đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.

Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định không đúng gây ra thì ngân sách Nhà nước phải gánh chịu.Hậu quả do hai điểm nói trên mang lại là cơ quan quản lý nhà nước làm thay chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn các doanh nghiệp vừa bị trói buộc, vì không có quyền tự chủ, vừa ỷ lại vào cấp trên, vì không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất.

Thứ ba, quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát – giao nộp”. Hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.

Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu.

Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau:

+ Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa thấp hơn giá trị thực của chúng nhiều lần so với giá trị thị trường. Với giá thấp như vậy, coi như một phần những thứ đó được cho không. Do đó, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.

+ Bao cấp qua chế độ tem phiếu (tiền lương hiện vật): Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên, công nhân theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động.

+ Bao cấp qua chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng không có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách vừa làm cho sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế “xin cho”.

Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ chế này có tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào mục đích chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa theo xu hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học – công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, không kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ những khiếm khuyết của nó, làm cho kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có nước ta, lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.

Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, chúng ta xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu.

            2. Giai đoạn 1986 – nay:

Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật”, từ Đại hội VI đến Đại hội X của Đảng, Đảng ta đã phân tích, đánh giá tình hình trong nước và thế giới một cách khách quan, xác định các xu thế phát triển tất yếu của thế giới và đã thực hiện bước chuyển đổi quan trọng cả về lý luận và thực tiễn: xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung, hành chính, quan liêu bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới tiến hành 25 năm đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.

Quan điểm cho rằng, khi chuyển sang kinh tế thị trường thì Nhà nước không cần phải can thiệp vào kinh tế và không cần thiết phải kế hoạch hóa vĩ mô nền kinh tế… là hoàn toàn sai lầm và không có căn cứ lý luận, thực tiễn. Trong tất cả các mô hình kinh tế đã được đúc kết trên thế giới có hai dạng điều tiết kinh tế: thứ nhất, điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hóa và các biện pháp hành chính; thứ hai, điều tiết gián tiếp thông qua thị trường, vận dụng cơ chế thị trường để tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp, dùng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích hoặc gây áp lực buộc các doanh nghiệp phát triển trong khuôn khổ pháp luật và theo hướng kế hoạch do Nhà nước đề ra. Hai dạng điều tiết kinh tế này chỉ khác nhau ở mức độ, liều lượng và hình thức của mỗi dạng trong cơ chế chung. Sở dĩ như vậy là vì, với tư cách là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô, là biện pháp, thủ đoạn kinh tế, cả kế hoạch hóa và thị trường đều có cả ưu thế lẫn khuyết tật. Bởi vậy, chúng cần bổ sung cho nhau để hạn chế những khuyết tật.

Công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế Việt Nam do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện bắt đầu từ năm 1986 chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang mô hình nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đến Đại hội lần thứ IX, Đảng ta khẳng định "phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đó là đường lối chiến lược nhất quán trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam".

Thực chất của quá trình đổi mới kinh tế vừa qua ơ Việt Nam chính là thừa nhận sự tồn tại khách quan của quan hệ hàng hoá- tiền tệ và cơ chế thị trường dựa trên tư duy, lý luận mới về quan hệ giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội .Theo đó, vai trò của Nhà nước đối với kinh tế cũng có sự thay đổi căn bản. Đó là quá trình chuyển nhà nước từ độc quyền sang quan hệ mới giữa Nhà nước và thị trường ( “ bàn tay hữu hình ” – “ bàn tay vô hình ” ),giữa Nhà nước và doanh nghiệp, giữa Nhà nước và nhân dân trong các hoạt động của toàn bộ nền kinh tế.Nếu trước đây Nhà nước là chủ thể của chế độ sở hữu, thì hiện nay đang giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống đa sở hữu, nếu trước đây là trực tiếp sản xuất kinh doanh thì hiện nay là thiết kế “ luật chơi ” ,hỗ trợ và tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, và nếu trứơc đây thực hiện kế hoạch hoá trực tiếp thì hiện nay chuyển sang điều tiết bằng hệ thống công cụ quản lý kinh tế vĩ mô.Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ,chức năng cơ bản của Nhà nước về kinh tế bao gồm : -Định hướng phát triển nền kinh tế thông qua chiến lược, chính sách, kế hoạch, quy hoạch và quản lý vĩ mô. -Phát triển tất cả các thành phần kinh tế trên cơ sở đa dạng hoá các quan hệ sơ hữu,lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo; thực hiện chế độ phân phối lợi ích một cách hợp lý thông qua việc sữ dụng các công cụ quản lý kinh tế (ngân sách, thuế,tín dụng…), tạo động lực phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế . -Tạo lập môi trường pháp lý lành  mạnh về kinh tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế hoạt động bình đẳng và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh.-Thực hiện tốt chức năng kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế theo đúng pháp luật và chính sách. Nghiêm trị các tệ nạn buôn lậu, trốn thuế, tham nhũng, quan liêu, sách nhiễu phiền hà …

Nhà nước có cơ chế, chính sách để bảo đảm sự ưu tiên đó, thể hiện ở cả ba lĩnh vực kinh tế cơ bản sau:

Trên lĩnh vực sở hữu: Sự tồn tại của ba chế độ sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân), ba hình thức sở hữu (hình thức sở hữu nhà nước, hình thức sở hữu tập thể, hình thức sở hữu tư nhân) là một đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Nhà nước thông qua hệ thống chính sách, pháp luật, đòn bẩy kinh tế để định hướng, làm cho kinh tế nhà nước từng bước vươn lên nắm vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.

Trên lĩnh vực quản lý: Nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách... tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động trực tiếp hay thông qua các khâu trung gian nhất định tham gia quá trình hoạch định, tổ chức, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch phát triển của doanh nghiệp.

Trên lĩnh vực phân phối: Nhà nước vừa thông qua hệ thống chính sách kinh tế do mình hoạch định, vừa sử dụng các nguồn lực - trực tiếp là bộ phận kinh tế nhà nước - để định hướng, can thiệp vào lĩnh vực phân phối và phân phối lại theo hướng ưu tiên phân phối theo lao động và qua phúc lợi xã hội; kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội; hoạch định các chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa...

Đặc biệt, trong sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, Nhà nước có vai trò to lớn trong việc bảo đảm sự ổn định vĩ mô cho phát triển và tăng trưởng kinh tế. “ổn định” ở đây thể hiện sự cân đối, hài hòa các quan hệ nhu cầu, lợi ích giữa người và người, tạo ra sự đồng thuận xã hội trong hành động vì mục tiêu phát triển của đất nước. Tính đúng đắn, hợp lý và kịp thời của việc hoạch định và năng lực tổ chức thực hiện các chính sách phát triển vĩ mô do Nhà nước đảm nhiệm là điều kiện tiên quyết nhất hình thành sự đồng thuận đó. Là những công cụ tạo ra sự đồng thuận xã hội, từ đó mà có ổn định xã hội cho phát triển và tăng trưởng kinh tế, các chính sách, pháp luật của Nhà nước, một mặt, phải phản ánh đúng những nhu cầu chung của xã hội, của mọi chủ thể kinh tế...; mặt khác, phải tôn trọng tính đa dạng về nhu cầu, lợi ích cụ thể của các chủ thể đó.

Nhà nước ta cũng có vai trò to lớn trong việc bảo đảm gia tăng phúc lợi xã hội, bởi mục tiêu căn bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là góp phần thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Có chính sách xã hội hợp lý; bảo đảm phúc lợi ngày một gia tăng nhờ hiệu quả tác động của chính sách kinh tế tiến bộ do Nhà nước hoạch định và tổ chức thực hiện bằng những nỗ lực của nhiều chủ thể kinh tế khác nhau... là nhân tố có vai trò quyết định trong vấn đề này.

Vai trò của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng thể hiện ở việc nhà nước góp phần đắc lực vào việc tạo môi trường cho thị trường phát triển, như tạo lập kết cấu hạ tầng kinh tế cho sản xuất, lưu thông hàng hóa; tạo lập sự phân công lao động theo ngành, nghề, vùng kinh tế qua việc nhà nước tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế theo lợi thế từng vùng, ngành và nhu cầu chung của xã hội... Là chủ thể trực tiếp sở hữu hoặc quản lý, khai thác những cơ quan truyền thông mạnh nhất của quốc gia, nhà nước góp phần cung cấp thông tin thị trường cho các chủ thể kinh tế để các chủ thể này chủ động lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh, đối tác kinh tế, thời điểm thực hiện các giao dịch kinh tế, cách thức sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất trong điều kiện cụ thể của mình...

Tuy nhiên, việc phát huy vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay cũng còn những hạn chế đáng kể: thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa được xây dựng đồng bộ, vận hành suôn sẻ; quản lý nhà nước về kinh tế còn nhiều bất cập; chưa có giải pháp mang tầm đột phá để kinh tế nhà nước thực sự hoàn thành tốt chức năng chủ đạo trong nền kinh tế; kinh tế tập thể còn rất yếu kém; năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thấp; chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường...

Nhìn lại nền kinh tế nước ta những năm qua, mặc dù kinh tế trưởng liên tục với tốc độ cao, nhưng chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, sức cạnh tranh và hiệu quả vẫn còn kém, nhất là yếu kém xuất phát từ nội bộ nền kinh tế. Ngoài sự tác động từ những nguyên nhân bên ngoài, một trong những nguyên nhân nổi bật thuộc về cơ chế quản lý và chính sách kih tế của nhà nước đối với doanh nghiệp. Nổi cộm nhất là sự đan xen giữa cơ chế quản lý cũ và mới, giữa nhận thức và phương thức chỉ đạo thực hiện ở TW và cấp cơ sở, giữa cách nghĩ, cách nhìn và cách làm của đội ngũ viên chức Nhà nước đã làm cho các doanh nghiệp thiếu phấn chấn trong kinh doanh.

Thực trạng đó có thể quy tụ vào 4 loại vấn đề sau: 1) Cơ chế và chính sách kinh tế chưa đảm bảo tính đồng bộ, lại hay thay đổi. Cơ chế xin – cho với những thủ tục hành chính phức tạp, vẫn còn thiếu chiến lược, quy hoạch tổng thể làm phân tán mục tiêu và lãng phí nguồn lực. 2) Đối với việc sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, tiền kiểm tuy có giảm bớt, nhưng còn phiền hà, nhũng nhiễu, còn hậu kiểm thì hữu khuynh, buông lỏng, thả nổi hoặc vi phạm quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp. 3) Bộ máy quản lý các cấp nặng nền, cồng kềnh, chống chéo, đầy khó khăn cho doanh nghiệp gánh chịu, cơ quan quản lý trực tiếp vô can; các quan hệ dân sự kinh tế thường bị hình sự hóa làm cho doanh nghiệp lo ngại. 4) một bộ phận không nhỏ đội ngũ viên chức yếu kém về năng lực, trình độ quản lý và xuống cấp về đạo đức, phẩm chất trở thành đường dây móc ngoặc bên ngoài, trên dowis hoặc là kẻ tiếp tay, bao che cho những kẻ kinh doanh lừa đảo, gian lận, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp.

Hiện nay, trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp nhà nước và ngoài quốc doanh có những tiếng nói đối lập nhau. Doanh nghiệp nhà nước thì kêu bị trói buộc bởi cơ chế, tạo cho họ ít lợi thế cạnh tranh trên thương trường, trước hết so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang có nhiều lợi thế hơn từquyền tự chủ. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì cho rằng, nhà nước vẫn còn quá ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước trên nhiều lĩnh vực, tạo sự bất đối xứng và có sự cạnh tranh không lành mạnh trong kinh doanh.

Hiện nay, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 đã và đang tác động rõ nét đến nền kinh tế nước ta. Chúng ta đang phải đối mặt với những khó khăn về vấn đề thanh khoản của hệ thống tín dụng, lãi suất ngân hàng không ổn định, những cơn sốt giá lương thực và năng lượng, sự sụt giảm của thị trường chứng khoán…

Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)...Đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.Tuy nhiên, hiện nay nền kinh tế thị trường ở Việt Nam vẫn chưa được một số nước trên thế giới công nhận (Mỹ) vì một số ngành nghề ở Việt Nam vẫn được Chính phủ Việt Nam bảo hộ.

Để nâng cao hơn nữa hiệu quả, hiệu lực tác động của Nhà nước tới phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Nhà nước cần sớm hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu. Hệ thống luật này phải khẳng định và bảo vệ sự tồn tại khách quan, lâu dài tính đa dạng của các hình thức sở hữu; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu. Cần xác định rõ, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Nhà nước ta là cung cấp môi trường pháp lý tin cậy cho các chủ thể kinh tế phát huy tối đa năng lực của họ.

Cùng với vấn đề then chốt trên, cần tiếp tục phân định rạch ròi chức năng quản lý hành chính nhà nước đối với kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; Nhà nước cần làm tốt chức năng hỗ trợ cho toàn xã hội sản xuất hàng hóa công cũng như tư; đặc biệt là kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội...

Để nâng cao năng lực của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, cần cải cách thể chế xây dựng chính sách, tích cực đấu tranh chống các hành vi độc đoán, chuyên quyền, tệ quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước.

Việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề vừa có tính cấp bách, vừa có tính lâu dài đó sẽ nâng cao hơn nữa hiệu quả tác động của Nhà nước tới sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập toàn cầu hiện nay./.

 

Lượt xem : 15455 Người đăng :

Bình luận

Ý kiến độc giả

Liên kết:

Logo quảng cáo