Trang chủ --> Y học --> BẠN ĐÃ BIẾT GÌ VỀ CHỬA NGOÀI TỬ CUNG BẠN ĐÃ BIẾT GÌ VỀ CHỬA NGOÀI TỬ CUNG
Hoàng Kim kỷ niệm 10 năm thành lập
Hoàng Kim kỷ niệm 10 năm thành lập
Tẩm quất Hoàng Kim
Tẩm quất Hoàng Kim
Tẩm quất Hoàng Kim
Tẩm quất Hoàng Kim

tin tức nổi bật

BẠN ĐÃ BIẾT GÌ VỀ CHỬA NGOÀI TỬ CUNG BẠN ĐÃ BIẾT GÌ VỀ CHỬA NGOÀI TỬ CUNG

 

 

Để thực hiện được những vấn đề của phòng bệnh, phát hiện sớm chửa ngoài tử cung, không để xảy ra “ba chậm trễ” thì điều quan trọng phải biết thế nào là chửa ngoài tử cung, vì sao lại bị chửa ngoài tử cung? Làm thế nào để phát hiện sớm được bệnh – dựa vào những dấu hiệu gì? Và khi đã nghi ngờ có chửa ngoài tử cung thì làm gì, đi đâu khám và sẽ giải quyết như thế nào? Đây chính là nội dung cơ bản mà chúng tôi sẽ giúp bạn giải quyết khá đầy đủ những câu hỏi trên đây

 

               

1. Thế nào là chửa ngoài tử cung? (dân gian hay gọi là chửa ngoài dạ con )

Thông thường, người phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ( từ 15-49 tuổi theo sinh học và lý thuyết ) thực tế ở Việt Nam thì chủ yếu tuổi sinh đẻ từ 25-35 tuổi chiếm tới trên dưới 70%), hàng tháng đều có kinh nguyệt ( từ 3-7 ngày là sạch) và vào giữa tháng (với người có chu kỳ kinh 28 đến 30 ngày có một kỳ kinh) lại có hiện tượng phóng noãn (ta quen gọi là “ rụng trứng”) và sau khi noãn đã được phóng ra khỏi buồng trứng thì nõan sẽ được “ đón vào loa vòi tử để rồi tiếp tục đi về buồng tử cung”. Trên đường đi về buồng tử cung, khi đến khoảng 1/3 ngoài của vòi tử cung nếu gặp tinh trùng từ dưới đi lên (có giao hợp trước đó từ 18 đến 24 giờ) thì noãn đó được thụ tinh trở thành trứng đã thụ tinh. Sau thụ tinh thì trứng tiếp tục di chuyển về phía tử cung qua các đoạn bóng vòi còn lại, eo, kẽ của vòi tử cung để vào buồng tử cung và làm tổ ở đó sau 38 đến 41 tuần lễ ( mà các cụ hay gọi là 9 tháng 10 ngày (tức 280 ngày) trẻ sơ sinh sẽ ra đời.

          Tuy nhiên nếu sau thụ tinh, vì một lý do nào đó có thể do cơ học, hóa học, vật lý làm cho trứng đã thụ tinh dừng lại ở bất kỳ thời điểm nào trên vòi tử cung, thậm chí có thể có nhu động của vòi tử cung ngược lại và đẩy trứng đó đi ngược lại phía bóng, phía loa vòi thậm chí ra ổ bụng…và gây ra chửa ngoài tử cung (tất nhiên tỷ lệ chửa ổ bụng, ở buồng trứng là vô cùng ít) mà chủ yếu là chửa ngoài tử cung ở vòi tử cung trong đó chủ yếu ở đoạn bóng của vòi chiếm tới ≥ 80%. Còn ở các vị trí khác từ kẽ vòi tử cung( tức là đoạn vòi nằm trong cơ tử cung rồi chỉ có 7,8%, eo vòi cũng 7,8%, loa vòi 4,1% và ít nhất là ở góc (sừng tử cung) >1%. Nghiên cứu của Nguyễn Văn Hà – 2004 tại bệnh viện phụ sản trung ương).

          Trước đó 4 năm – vào năm 2000, một nghiên cứu khác của Nguyễn Thị Thúy Hà trong 10 tháng (1/1999 đến 10/1999) có 361 trường hợp chửa ngoài tử cung trong đó có tới 91,2% chửa ở đoạn bóng và loa vòi tử cung. Có thể nói đó là những nguy cơ rất cao vì kích thước của lòng vòi tử cung chỉ có 1mm đến 2mm do đó sẽ rất sớm bị vỡ đưa đến chảy máu đe dọa tính mạng thai phụ là vì thế. Còn nếu mổ sớm có thể chỉ mở vòi lấy khối chửa đi, giữ lại được vòi tử cung đó hoặc cắt bỏ đoạn chửa ngoài tử cung đó đi và nối lại vòi tử cung thì sự hồi phục chức năng vòi tử cung còn tốt hơn nữa và đương nhiên thoát được hiểm họa chảy máu.


2. Vì sao lại bì chửa ngoài tử cung (tức là nguyên nhân đưa đến chửa ngoài dạ con?)

          Nhìn cung, có thể nói là mọi yếu tố đã ngăn cản hoặc làm cho sự di chuyển của trứng đã thụ tinh qua vòi tử cung để vào buồng tử cung không được trọn vẹn đã gây nên chửa ngoài tử cung cho người phụ nữ, dù còn có ý kiến bàn cãi xong về cơ bản đã thấy các nguyên nhân chính sau đây theo thứ tự là:

-         Do bị viêm nhiễm vòi tử cung: là hay gặp nhất do nhiều cách viêm nhiễm đã nêu.

-         Do có các khối u trong lòng vòi tử cung hoặc ở ngoài đè ép vào vòi tử cung, làm trứng không di chuyển được.

-         Các can thiệp phẫu thuật vào vòi tử cung trước đó (mổ gỡ dính, mổ chửa ngoài dạ con cũ, mổ vi phẫu, mổ tạo hình loa vòi) thậm chí các phẫu thuật vùng bụng và tiểu khung: mổ lấy thai, mổ ruột thừa, tiết niệu, mổ viêm phúc mạc hoặc viêm phúc mạc tiểu khung…

-         Các nguyên nhân hóa học, nội tiết ví dụ: việc dùng thuốc tránh thai đơn thuần có progestin; bị sử dụng thuốc bơm thông, chụp vòi tử cung gây chảy máu hoặc không đúng chỉ định.

-         Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản như: kích thích buồng trứng bằng Gonadotropin, thụ tinh trong ống nghiệm…

-         Những tác nhân hóa học, cơ học trên đây còn có thể gây chuyển dộng ngược dòng của các nhung mao có trong vòi tử cung, làm cho trứng ngược ra ngoài, ngừng đi vào tử cung…

Nói lên những nguyên nhân trên đây để thấy: người phụ nữ phải rất thận trọng ngay từ khi vào tuổi dậy thì – tức là lúc có kinh nguyệt đã phải giữ gìn vệ sinh kinh nguyệt chu đáo, không để máu kinh nguyệt là môi trường rất dễ bội nhiễm bởi các vi khuẩn từ vùng kín âm hộ, hậu môn và từ các khăn, khố kinh nguyệt không an toàn, có vi khuẩn được sử dụng khi có kinh do đó đã có không ít chị em vô sinh 1 (tức là bị vô sinh từ tắc 2 vòi tử cung, dính tử cung ngay sau khi lấy chồng không thấy có thai, đi khám, chụp tử cung đã tắc 2 vòi rồi…) Trong thực tế đã gặp có chị mới vài tháng sau cưới sốt ruột đi khám và chụp tử cung đã có tắc 2 vòi tử cung. Đó là những vô sinh nguyên phát (chưa có thai bao giờ ).

Khi đã có khả năng sinh sản ( đã có kinh nguyệt) thì hãy thận trọng trong mọi sinh hoạt nhất là trong lao động (ngâm mình dưới ao, hồ nước bẩn), quan hệ tình dục không có bảo vệ (nhất là khi bạn tình lại có bệnh), thực hiện hút, nạo thai ngoài ý muốn ở những nơi không an toàn về mặt kỹ thuật, qui trình khử khuẩn, vô khuẩn để gây nên viêm nhiễm đường sinh dục tới 2 vòi tử cung bị dính, tắc hoặc tổn thương nặng nề hơn.

Thậm chí khi sinh đẻ nếu không đảm bảo đỡ đẻ sạch thì cũng rất dễ đưa đến viêm nhiễm đường sinh dục sau đó, trong đó có cả viêm dính tử cung và 2 vòi tử cung.

Việc dùng các thuốc nội tiết cho tránh thai cũng phải được bác sỹ chuyên ngành phụ sản hoặc người làm công tác sinh đẻ có hướng dẫn thăm khám và có chỉ định đúng cho từng đối tượng, chứ không như hiện nay: nhiều chị em (nhất là phụ nữ trẻ hoặc 1 con) cứ ra hiệu thuốc, thậm chí mẹt thuốc bán ở chợ họ bảo mua, uống là làm theo cho nên đã có chị em bị hậu quả nặng nề…

Sau cùng là những cơ sở dịch vụ, cán bộ y tế phải biết và tự mình thực hiện nghiêm túc các quy trình của nghề nghiệp trong việc thực hiện các qui trình chuyên môn kỹ thuật được cho phép làm với một “chữ Tâm trong sáng” đối với khách có nhu cầu dịch vụ. Nếu thấy mình chưa đủ tư cách phục vụ theo qui định nghề nghiệp thì chỉ cần giới thiệu khách đến nơi có điều kiện thích hợp đã là “người có chữ tâm trong nghề nghiệp”. Vì khi đó khách sẽ được đến nơi có thầy thuốc làm đúng kỹ thuật và các qui trình chuyên môn đã được ban hành của Bộ Y tế trong các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản cho chị em phụ nữ. Có như vậy mới làm tăng thêm lòng tin của người bệnh đối với cán bộ y tế và ngược lại tính khiêm tốn và nâng cao y đức y đạo của người thầy thuốc cho dù nguyên nhân gửi đi có thể chỉ vì cơ sở hạ tầng chưa tốt, hoặc y dụng cụ chưa tốt, hoặc y dụng cụ chưa đầy đủ nhất là điều kiện vô khuẩn và tiệt trùng chưa tốt kiện vô khuẩn và tiệt trùng chưa tốt.

3. Phân loại chửa ngoài tử cung

Chửa ngoài tử cung có thể nằm ở 4 vị trí, theo phân loại giải phẫu của vòi tử cung (quen gọi là vòi trứng trước đây); theo vị trí khối chửa ngoài tử cung bám vào, quá nhiều nghiên cứu và thấy như sau:

a. Nếu chửa ở vòi tử cung có thể xảy ra ở 4 chỗ của vòi (như hình vẽ cho thấy chửa ở vòi tử cung có tới 95% đến 98%).

Trong đó:

-         ở đoạn bóng của vòi tử cung có 78% phôi làm tổ.

-         Ở đoạn eo của vòi tử cung có 12% phôi làm tổ

-         Ở đoạn loa của vòi tử cung có 5% phôi làm tổ.

-         Ở đoạn kẽ (ngay sừng tử cung) có 2% phôi làm tổ.

b. Nếu chửa ở buồng trúng có từ 0,7% đến 1% (tùy tác giả)

c. Nếu chửa ở ống cổ tử cung có từ 0,5 đến 1% (tùy tác giả)

d. Còn chửa trong ổ bụng thì rất hiếm gặp.

4. Tiến triển của các khối chửa ngoài tử cung ở vòi tử cung sẽ rất nguy hiểm vì sao?

          Về cấu tạo giải phẫu: Lớp cơ của vòi tử cung rất mỏng, khi có thai lớn niêm mạc vòi tử cung cũng ít biến đổi so  với bình thường cho nên không thể tạo điều kiện cho trứng đã thụ tinh thành phôi thai làm tổ được như ở trong buồng tử cung. Vì vậy thai chỉ phát triển được một thời gian rất ngắn rồi sẽ gây ra biến chứng mà nặng nề nhất là vòi tử cung khối chữ chỗ khối chửa nằm sẽ vỡ tung gây chảy máu nghiêm trọng và có thể dẫn đến tử vong bà mẹ nếu không cấp cứu kịp thời trước đó.

          Nguyên nhân gây vỡ vòi tử cung và các mức độ sẽ xảy ra như thế nào?

- Do gai rau của phôi ăn sâu vào lớp cơ mỏng manh của vòi tử cung – hoặc làm thủng luôn cả vòi tử cung, hoặc do khối chửa đó làm vòi bị dãn, căng to và vỡ toác vòi chỗ đó, khi đó các mạch máu cũng bị đứt, vỡ gây chảy máu vào ổ bụng. Tùy theo mức độ chảy nhiều, it, nhanh, chậm và có thể gây ra các hậu quả như sau:

+ Chảy ồ ạt gây ngập máu ổ bụng nếu làm vỡ vòi tử cung.

+ Chảy từ từ, ít một, đọng lại ở chỗ thấp trong khung chậu bà mẹ rồi được khu trú lại tạo thành khối máu tụ.

+ Có thể xảy khối chửa ra ngoài ổ bụng qua loa vòi hay qua chỗ vỡ cũng gây chảy máu nặng nề.

+ Cũng có khi chảy máu được đọng lại trong vòi tử cung gây ứ máu trong vòi tử cung, bọc thai bị chết ở trong đó và có thể tự tiêu đi.

+ Có khi bọc thai đó lại chỉ bong ra dần dần máu chỉ chảy ít một rồi đọng lại trong chỗ thấp nhất của tiểu khung (là túi cùng Douglas ( Đu- gờ - la), hoặc nằm cạnh tử cung sẽ được ruột, mạc treo, mạc nối lớn đến bọc lại tạo thành khối máu tụ- lâm sàng gọi là “huyết tụ thành nang”. Trong khi đó ở dường dưới bà mẹ vẫn thấy ra máu ít, dai dẳng, đau bụng âm ỉ… Lúc này ngay việc mổ xẻ cũng có khó khăn cho thầy thuốc vì dính, phức tạp hơn nhiều và phải có kinh nghiệm mổ sẻ tốt mới có thể tránh xảy ra những tai biến trong lúc mổ do dính chắc khối chửa huyết tụ thành nang này với ruột, và mạch máu ở thành chậu hông, niệu quản, bàng quang… rồi còn để lại những hậu quả về sau nữa như vô sinh, dính tắc ruột sau đó. Đó chính là tai hại của việc không hiểu biết, phát hiện muộn bệnh lý chửa ngoài tử cung gây ra.

Với lý do trên đây, sách này muốn viết rõ các hình thái, triệu chứng của chửa ngoài dạ con để mọi người từ chị em phụ nữ, gia đình và đặc biệt là cán  bộ y tế cơ sở khi đọc có thể thấy được mà liên hệ cho bản thân, cho bạn bè, cho bệnh nhân của mình phụ trách, góp phần phát hiện sớm khi thấy các dấu hiệu (triệu chứng xuất hiện) mà tự mình sẽ đi khám hoặc đưa bạn, người thân hoặc bệnh nhân của mình đi khám bệnh sớm nhất để không bỏ sót và chậm chễ.

Lượt xem : 57635 Người đăng :
Tags :

Bình luận

Ý kiến độc giả

Liên kết:

Logo quảng cáo