Trang chủ --> Giáo dục trẻ khuyết tật --> MỤC TIÊU GIÁO DỤC TRẺ KHUYẾT TẬT
Hoàng Kim kỷ niệm 10 năm thành lập
Hoàng Kim kỷ niệm 10 năm thành lập
Tẩm quất Hoàng Kim
Tẩm quất Hoàng Kim
Tẩm quất Hoàng Kim
Tẩm quất Hoàng Kim

tin tức nổi bật

MỤC TIÊU GIÁO DỤC TRẺ KHUYẾT TẬT

 

CHƯƠNG 2

LÍ LUẬN GIÁO DỤC

TRẺ KHUYẾT TẬT

I. MỤC TIÊU GIÁO DỤC TRẺ KHUYẾT TẬT

            Mục tiêu giáo dục là dự kiến kết quả cần đạt tới của quá trình giáo dục sau một thời gian nhất định, đó là cái đích đến của quá trình giáo dục. Nếu xác định đích đến không phù hợp thì sẽ làm cho cả quá trình giáo dục bị lệch hướng, không đạt hiệu quả.

          Mục tiêu giáo dục trẻ khuyết tật cần được xây dựng một cách cụ thể về các mặt giáo dục và có thể đánh giá, thực hiện được. Mục tiêu cũng cần chỉ rõ tính thực tế và tính định hướng trong một thời gian hạn định.

          Xây dựng mục tiêu giáo dục trẻ khuyết tật giúp cho giáo viên, học sinh và những người liên quan biết trẻ đang đi đến đâu, cần đạt đến mức nào trong quá trình giáo dục, từ đó có định hướng và thực hiện bằng các hoạt động với phương tiện và vật chất… phù hợp, cần thiết. Thông qua mục tiêu, chúng ta có thể xác định cách thực hiện, những hỗ trợ cần thiết cho sự phát triển và tiến trình học tập của trẻ. Mục tiêu đặt ra còn có ý nghĩa quan trọng giúp các nhà quản lí xác định được tiêu chuẩm đánh giá phù hợp cho sự phát triển của trẻ.

          Để xây dựng được mục tiêu giáo dục phù hợp cho quá trình giáo dục trẻ khuyết tật cần dựa trên những cơ sở nhất định: Xu thế giáo dục toàn cầu - được trể hiện trong những mục tiêu của tổ chức giáo dục UNESCO; mục tiêu giáo dục cho trẻ nói chung ở Việt Nam; cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội; cơ sở về năng lực nhu cầu của trẻ khuyết tật.

1.1. Cơ sở xây dựng mục tiêu

          Xây dựng mục tiêu giáo dục trẻ khuyết tật cần dựa vào những căn cứ sau:

1.1.1. Mục tiêu giáo dục của UNESCO   

Mục tiêu giáo dục của UNSCO chỉ rõ xu thế phát triển con người trong đó hoạt động đào tạo con người phải theo 4 mục tiêu trụ cột sau:

·        Học để biết

Con người ngoài việc thu nhận thông tin, tiếp thu tri thức còn phải trú trọng tạo lập và sử dụng thành thạo tri thức như là những công cụ tâm lí. Học tập vừa là phương tiện vừa là mục đích. Là phương tiện vì học tập  giúp cho con người hiểu được môi trường sống và làm việc của mình. Là mục tiêu học tập làm thoả mãn nhu cầu được hiểu biết, phát minh, phát hiện, có tư duy độc lập, có khả năng phê phán và đưa ra ý kiến của riêng mình.

     Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, con người có thể có được tri thức bằng nhiều con đường khác nhau, ngoài con đường giáo dục chính thống qua hệ thống nhà trường. Điều quan trọng là phải biết được những phương pháp học khác nhau để học và phải biết chọn lọc thông tin, tri thức cần thiết.  

     Trẻ khuyết tật được tiếp cận với kiến thức bằng nhiều con đường và cách tiếp cận khác nhau, điều này sẽ giúp cho các em có kiến thức, kinh nghiệm làm phương tiện cho quá trình học tập, phát triển và hoà nhập cộng đồng. Có học thì có biết, điều đó đã được mặc nhiên công nhận, nhưng với trẻ khuyết tật, việc tạo ra cơ hội để các em được tiếp cận, học hỏi là điều thiết thực để trẻ khuyết tật được học và vận dụng những hiểu biết của mình vào cuộc sống hàng ngày của các em.

·        Học để làm

Đây là sự giải quyết mối tương quan giữa học và làm, lí thuyết cới thực hành, giáo dục  phổ thông và giáo dục nghề. Điều đặc biệt là giải quyết vấn đề giáo dục để thích nghi với việc làm trong tương lai. Giáo dục phải định hướng và gắn kết người học, đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn, giúp sau này khi ra trường người học hoàn toàn có thể thích ứng với nhu cầu công việc. Giáo dục phải chú ý giữa các mặt nâng cao tri thức, công nghệ và kĩ năng sống, nhất là khả năng giao tiếp, hợp tác, điều hành.

Mục tiêu này được nói tới với đối tượng trẻ khuyết tật như là một thực tiễn cần giải quyết. Vấn đề giáo dục trẻ khuyết tật không chỉ là "giáo dục" mang tính chung chung, thiếu hướng đích mà nó phải tìm ra đáp án của bài toán: các trẻ sau này khi rời nhà trường có thể sống độc lập trong cộng đồng, có nghề nghiệp và tự nuôi sống bản thân. Học để làm việc là mục tiêu đặt ra để hướng quá trình đào tạo gắn với khả năng và cơ hội tiếp cận nghề nghiệp cho các em trong cuộc sống hàng ngày cũng như cuộc sống sau này.

·        Học để cùng chung sống

Giáo dục thái độ biết tôn trọng, biết giải quyết các mâu thuẫn, xung đột và chấp nhận những giá trị tinh thần cũng như sự khác biệt của nhau. Mục tiêu này gồm hai nội dung:

Học để hiểu, chấp nhận và biết nhìn nhận về người khác: Trong quá trình giáo dục, phải giúp mọi học sinh hiểu được quy luật về tính đa dạng, tính thống nhất của loài người. Mỗi người đều khác nhau, sự khác biệt đó không nhằm vào một đối tượng người nào. Trẻ khuyết tật cũng là một trẻ em có sự đặc điểm, khả năng và nhu cầu riêng; những trẻ em bình thường cung có  khó khăn và năng lực riêng không giống nhau. Các em cần phải biết chấp nhận sự khác biệt, hỗ trợ nhau, chia sẻ cho nhau.Giáo dục cần phải giúp người học biết rõ về mình và hiểu được người khác. Từ đó người học sẽ có thái độ thiện cảm, thông cảm với người khác. Giáo dục phải làm cho trẻ em có thái độ biết ơn người khác nhưng cũng dạy trẻ biết cách đối thoại và tranh luận với người khác. Đối với bản thân trẻ khuyết tật, các em nhận được sự chấp nhận của người khác đồng thời cũng biết chấp nhận chính mình. Chấp nhận sự khuyết tật như là một đặc điểm tiên để cùng hoà nhập vào cộng đồng, bạn bè xung quanh mình.

Cùng làm việc vì mục đích chung: Thế hệ trẻ phải được giáo dục tinh thần hợp tác, quan tâm lẫn nhau trong mọi hoạt động vì một mục đích chung, sự chia sẻ, hợp tác và trách nhiệm cá nhân với tập thể và thành quả đặc biệt là quan trọng. Cùng chùng sống, cùng chung mục đích sẽ giúp mọi trẻ có thể tham gia vào hoạt động, không bị cô lập, và đặc biệt sẽ góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng của công việc từ những nỗ lực chung của mọi thành viên.

·        Học để tự khẳng địnhh mình

Giáo dục phải đạt được yêu cầu giúp cho người học trở nên độc lập hơn tự tin hơn . Trong quá trình giáo dục, rèn luyện cho người học phải biết phê phán, đưa ra những ý kiến riêng, tự đưa ra những quyết định hành động trong những bối cảnh sống khác nhau. Giáo dục phải mang lại sự tự do suy nghĩ, phán đoán tự do phát triển tài năng và tự kiểm tra cuộc sống của mình. Trẻ khuyết tật khi tham gia vào quá trình giáo dục, các em hoàn toàn có thể tự tin vào chính năng lực của mình cũng như đưa ra các ý kiến. Tham gia vào quá trình giáo dục chung, trẻ khuyết tật có thể nhận rõ mình và có cơ hội được khẳng định khả năng của mình, bản thân mình trước các thành viên khác.

1.1.2. Mục tiêu giáo dục các cấp bậc học

Giáo dục trẻ khuyết tật là một bộ phận thuộc hệ thống giáo dục quốc dân phổ thông, vì vậy cũng cần phải đảm bảo các mục tiêu chung theo từng cấp, bậc học.

Điều 22. Mục tiêu giáo dục mầm non, Luật giáo dục 2005: "Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp 1".

Điều 27. Mục tiêu của giáo dục phổ thông, Luật giáo dục 2005: "Mục tiêu giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Mục tiêu của giáo dục phổ thông được tiếp tục quy định cho mục tiêu giáo dục ở từng cấp bậc (tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông).

Xây dựng mục tiêu giáo dục cho trẻ khuyết tật cần bám sát và đảm bảo hướng tới thực hiện mục tiêu giáo dục của mầm non và của các cấp, bậc học khác nhau.

1.1.3. Cơ sở kinh tế, văn hoá, giáo dục xã hội

Ngày nay, chúng ta đang đứng trước một thời đại nhiều cơ hội cũng như thách thức. Loài người đã đạt được những thành tựu về công nghệ thông tin, tin học, điện tử, vật liệu mới v.v… thực sự là những lực lượng sản xuất hiện đại. Đồng thời, những mâu thuẫn, thử thách mà con người phải đối mặt cũng là rất lớn: hội nhập và bản sắc văn hoá dân tộc, giữa giàu và nghèo, môi trường, dân số, bệnh tật v.v… Những hiểm hoạ, biến động là khó lường, nhưng xu thế phát triển của loài người là xu thế đi lên, tiến tới mục tiêu giải phóng con người, làm cho mọi năng lực trong mỗi con người được phát huy tối đa, sự tự do phát triển của mỗi người và của toàn xã hội.

Sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức đã tạo một cơ sở hạ tầng mới cho xã hội thông tin - xã hội học tập. Một xã hội học tập được thể hiện bằng hình thức học tập khác nhau. Học tập thường xuyên, học tập suất đời không chỉ còn là khẩu hiệu mà đã đi vào thực tiễn của đời sống con người.

Để đạt được một xã hội học tập đòi hỏi: trường, lớp cần được xây dựng tiêu chuẩn hơn, các thiết bị dạy học, bảng, bàn ghế… tốt hơn, hiện đại hơn, đội ngũ giáo viên được nâng cao hơn về chất lượng, đủ về số lượng. Nền giáo dục Việt Nam hiện nay đang tiến tới: xã hội hóa, hiện đại hóa, chuẩn hóa, đa dạng hóa, dân chủ hóa. Những nỗ lực này không thể đặt ngoài định hướng cho giáo dục trẻ khuyết tật Việt Nam. Trẻ khuyết tật được đến trường, môi trường lớp học cần phải phù hợp với nhu cầu học tập và sinh hoạt của các em. Các em được tiếp cận phương tiện học tập từ phổ thông đến hiện đại, tham gia các hình thức giáo dục khác nhau một cách bình đẳng, dân chủ, công bằng và được giáo dục nhận thức những vấn đề thời sự của xã hội,…

1.1.4. Cơ sở về năng lực và nhu cầu của trẻ khuyết tật.

·        Nhu cầu

          Mỗi người đều có nhu cầu nhất định để tồn tại và phát triển. Đó là những nhu cầu về vật chất và tinh thần, nó được phát sinh bởi nhiều yếu tố kích thích cả bên trong lẫn bên ngoài. Các nhân tố kích thích nhu cầu đó là đòi hỏi cá nhân về những cái cần thiết để tồn tại và phát triển. Chẳng hạn nhân tố kích thích bên trong như cảm giác đói, khát, muốn có một cái gì đó đển ăn hoặc giảm bớt cơn khát. Khi rơi vào trạng thái buồn chán, cô đơn người ta muốn tìm đến những người bạn để được chia sẻ… Nhu cầu có thể trở thành động cơ thúc đẩy con người hành động bởi những kích thích bên ngoài. Một trẻ phải dùng nạng để di chuyển, khi nhìn thấy các hoạt động vui chơi của các bạn cùng trang lứa sẽ kích thích khát vọng được di chuyển nhanh nhẹn, mạnh mẽ, cảm giác muốn được tham gia các trò chơi cùng bạn bè kích thích em cố gắng luyện tập để có đôi chân vững vàng hơn, khỏe mạnh hơn…

          Tuy nhiên, để hiểu rõ nhu cầu của trẻ khuyết tật không phải là đơn giản bởi lẽ có thể các em tự nhận thức thấy và tự biểu đạt nhu cầu thông qua hành vi, thói quen, nhưng cũng có những trẻ không thể hiện và không xuất hiện nhu cầu nếu không được kích thích. Để nhận biết được nhu cầu và kích thích các nhu cầu của trẻ khuyết tật  đòi hỏi các nhà giáo dục phải xác định được nhu cầu nào là nhu cầu cơ bản nhất của trẻ, những hoạt động nào có thể cho thấy sự xuất hiện nhu cầu của các em, cần phải thỏa mãn nhu cầu đó theo phương pháp, hình thức và hoạt  động nào? Khi chúng ta xác định được nhu cầu của trẻ, tạo ra môi trường kích thích phù hợp, cá nhân trẻ khuyết tật có thể sẽ tích cực tham gia hoạt động, tăng cường tìm kiếm thông tin để thỏa mãn nhu cầu.

          Theo nghiên cứu của Abraham Maslow, nhà tâm lí học Mĩ, ở mỗi người luôn tồn tại một hệ thống các nhu cầu từ thấp đến cao: đó là các nhu cầu về tồn tại, được an toàn, nhu cầu xã hội, nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu được phát triển. Trẻ khuyết tật với những hạn chế do khuyết tật, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động thể chất và tinh thần. Vì vậy, các em có những nhu cầu cấp bách đòi hỏi phải hỗ trợ, kích thích nhu cầu cũng như mong muốn, nỗ lực để đáp ứng của chính bản thân trẻ, giúp các em có thể tham gia hoạt động và hòa nhập với xã hội dễ dàng.

·                     Năng lực

          Mọi trẻ em đều có thể học được, các em có thể học theo cách khác nhau, và có những năng lực khác nhau trong một lĩnh vực nào đó.

          Học thuyết về trí thông minh đa diện của Howard Gardner cho rằng mỗi người đều có thể có ở mức độ khác nhau về 8 loại trí khôn: ngôn ngữ, logic toán học, âm nhạc, hội họa/không gian, vận động cơ thể, nội tâm, tương tác xã hội và tìm hiểu thiên nhiên.

          Chúng ta xác định: Thế giới bên ngoài nhà trường là cái đích của tất cả học sinh, nhà trường phải coi trọng sự khác biệt cá nhân của từng đứa trẻ, quan tâm tới trẻ và những khả năng khác nhau của trẻ để tổ chức tác động giúp các em phát huy năng lực một cách tốt nhất. Nhìn nhận mọi trẻ em đều có khả năng, khả năng đó thể hiện ở các mặt, các lĩnh vực khác nhau từ đó giúp các nhà giáo dục có thể áp dụng phương pháp dạy học phù hợp đối tượng, chú ý tới các hình thức tổ chức hoạt động, đa dạng hóa nội dung và chương trình học tập.

1.2. Mục tiêu giáo dục trẻ khuyết tật

          Mục tiêu giáo dục trẻ khuyết tật được hiểu theo nghĩa rộng, tức là mục tiêu chung và những mục tiêu giáo dục cụ thể gồm:

·                     Theo nghĩa rộng, mục tiêu giáo dục trẻ khuyết tật là:

          Đảm bảo cho trẻ khuyết tật hưởng những quyền giáo dục cơ bản, quyền tự do không tách biệt, tham gia vào hoạt động xã hội và có cơ hội cống hiến.

          Phát triển toàn diện các mặt cho trẻ khuyết tật, bao gồm: Đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và khả năng lao động; phát triển kiến thức, kĩ năng văn hóa xã hội, thái độ tích cực, tạo điều kiện hòa nhập cộng đồng khi trẻ 18 tuổi.

          Trẻ khuyết tật có cơ hội hòa nhập vào môi trường giáo dục bình thường, phát triển hài hòa và tối đa những khả năng còn lại để hình thành, phát triển nhân cách.

·                     Những mục tiêu giáo dục cụ thể cho trẻ khuyết tật:

          - Về kiến thức, kĩ năng văn hóa: Đạt trình độ phát triển tối đa so với khả năng của trẻ trong cùng thời gian và môi trường giáo dục phổ thông.

          - Về kĩ năng xã hội: Được trang bị những kiến thức và kĩ năng xã hội như trẻ bình thường ở cùng độ tuổi, có điều chỉnh cho phù hợp.

          - Phục hồi chức năng: Cải thiện tình trạng suy giảm chức năng do khuyết tật gây nên đồng thời phát huy tối đa những chức năng còn lại.

          - Giáo dục tự phục vụ, lao động: Phát huy tối đa khả năng tự phục vụ của trẻ trong các hoạt động sống, sinh hoạt, học tập hàng ngày.

          - Giáo dục lao động, hướng nghiệp và dạy nghề: Được hướng nghiệp, học nghề trong các cơ sở đào tạo để có một nghề hay một công việc có thu nhập và có cơ hội được cống hiến cho xã hội.

 

CHƯƠNG 2

LÍ LUẬN GIÁO DỤC

TRẺ KHUYẾT TẬT

I. MỤC TIÊU GIÁO DỤC TRẺ KHUYẾT TẬT

            Mục tiêu giáo dục là dự kiến kết quả cần đạt tới của quá trình giáo dục sau một thời gian nhất định, đó là cái đích đến của quá trình giáo dục. Nếu xác định đích đến không phù hợp thì sẽ làm cho cả quá trình giáo dục bị lệch hướng, không đạt hiệu quả.

          Mục tiêu giáo dục trẻ khuyết tật cần được xây dựng một cách cụ thể về các mặt giáo dục và có thể đánh giá, thực hiện được. Mục tiêu cũng cần chỉ rõ tính thực tế và tính định hướng trong một thời gian hạn định.

          Xây dựng mục tiêu giáo dục trẻ khuyết tật giúp cho giáo viên, học sinh và những người liên quan biết trẻ đang đi đến đâu, cần đạt đến mức nào trong quá trình giáo dục, từ đó có định hướng và thực hiện bằng các hoạt động với phương tiện và vật chất… phù hợp, cần thiết. Thông qua mục tiêu, chúng ta có thể xác định cách thực hiện, những hỗ trợ cần thiết cho sự phát triển và tiến trình học tập của trẻ. Mục tiêu đặt ra còn có ý nghĩa quan trọng giúp các nhà quản lí xác định được tiêu chuẩm đánh giá phù hợp cho sự phát triển của trẻ.

          Để xây dựng được mục tiêu giáo dục phù hợp cho quá trình giáo dục trẻ khuyết tật cần dựa trên những cơ sở nhất định: Xu thế giáo dục toàn cầu - được trể hiện trong những mục tiêu của tổ chức giáo dục UNESCO; mục tiêu giáo dục cho trẻ nói chung ở Việt Nam; cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội; cơ sở về năng lực nhu cầu của trẻ khuyết tật.

1.1. Cơ sở xây dựng mục tiêu

          Xây dựng mục tiêu giáo dục trẻ khuyết tật cần dựa vào những căn cứ sau:

1.1.1. Mục tiêu giáo dục của UNESCO   

Mục tiêu giáo dục của UNSCO chỉ rõ xu thế phát triển con người trong đó hoạt động đào tạo con người phải theo 4 mục tiêu trụ cột sau:

·        Học để biết

Con người ngoài việc thu nhận thông tin, tiếp thu tri thức còn phải trú trọng tạo lập và sử dụng thành thạo tri thức như là những công cụ tâm lí. Học tập vừa là phương tiện vừa là mục đích. Là phương tiện vì học tập  giúp cho con người hiểu được môi trường sống và làm việc của mình. Là mục tiêu học tập làm thoả mãn nhu cầu được hiểu biết, phát minh, phát hiện, có tư duy độc lập, có khả năng phê phán và đưa ra ý kiến của riêng mình.

     Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, con người có thể có được tri thức bằng nhiều con đường khác nhau, ngoài con đường giáo dục chính thống qua hệ thống nhà trường. Điều quan trọng là phải biết được những phương pháp học khác nhau để học và phải biết chọn lọc thông tin, tri thức cần thiết.  

     Trẻ khuyết tật được tiếp cận với kiến thức bằng nhiều con đường và cách tiếp cận khác nhau, điều này sẽ giúp cho các em có kiến thức, kinh nghiệm làm phương tiện cho quá trình học tập, phát triển và hoà nhập cộng đồng. Có học thì có biết, điều đó đã được mặc nhiên công nhận, nhưng với trẻ khuyết tật, việc tạo ra cơ hội để các em được tiếp cận, học hỏi là điều thiết thực để trẻ khuyết tật được học và vận dụng những hiểu biết của mình vào cuộc sống hàng ngày của các em.

·        Học để làm

Đây là sự giải quyết mối tương quan giữa học và làm, lí thuyết cới thực hành, giáo dục  phổ thông và giáo dục nghề. Điều đặc biệt là giải quyết vấn đề giáo dục để thích nghi với việc làm trong tương lai. Giáo dục phải định hướng và gắn kết người học, đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn, giúp sau này khi ra trường người học hoàn toàn có thể thích ứng với nhu cầu công việc. Giáo dục phải chú ý giữa các mặt nâng cao tri thức, công nghệ và kĩ năng sống, nhất là khả năng giao tiếp, hợp tác, điều hành.

Mục tiêu này được nói tới với đối tượng trẻ khuyết tật như là một thực tiễn cần giải quyết. Vấn đề giáo dục trẻ khuyết tật không chỉ là "giáo dục" mang tính chung chung, thiếu hướng đích mà nó phải tìm ra đáp án của bài toán: các trẻ sau này khi rời nhà trường có thể sống độc lập trong cộng đồng, có nghề nghiệp và tự nuôi sống bản thân. Học để làm việc là mục tiêu đặt ra để hướng quá trình đào tạo gắn với khả năng và cơ hội tiếp cận nghề nghiệp cho các em trong cuộc sống hàng ngày cũng như cuộc sống sau này.

·        Học để cùng chung sống

Giáo dục thái độ biết tôn trọng, biết giải quyết các mâu thuẫn, xung đột và chấp nhận những giá trị tinh thần cũng như sự khác biệt của nhau. Mục tiêu này gồm hai nội dung:

Học để hiểu, chấp nhận và biết nhìn nhận về người khác: Trong quá trình giáo dục, phải giúp mọi học sinh hiểu được quy luật về tính đa dạng, tính thống nhất của loài người. Mỗi người đều khác nhau, sự khác biệt đó không nhằm vào một đối tượng người nào. Trẻ khuyết tật cũng là một trẻ em có sự đặc điểm, khả năng và nhu cầu riêng; những trẻ em bình thường cung có  khó khăn và năng lực riêng không giống nhau. Các em cần phải biết chấp nhận sự khác biệt, hỗ trợ nhau, chia sẻ cho nhau.Giáo dục cần phải giúp người học biết rõ về mình và hiểu được người khác. Từ đó người học sẽ có thái độ thiện cảm, thông cảm với người khác. Giáo dục phải làm cho trẻ em có thái độ biết ơn người khác nhưng cũng dạy trẻ biết cách đối thoại và tranh luận với người khác. Đối với bản thân trẻ khuyết tật, các em nhận được sự chấp nhận của người khác đồng thời cũng biết chấp nhận chính mình. Chấp nhận sự khuyết tật như là một đặc điểm tiên để cùng hoà nhập vào cộng đồng, bạn bè xung quanh mình.

Cùng làm việc vì mục đích chung: Thế hệ trẻ phải được giáo dục tinh thần hợp tác, quan tâm lẫn nhau trong mọi hoạt động vì một mục đích chung, sự chia sẻ, hợp tác và trách nhiệm cá nhân với tập thể và thành quả đặc biệt là quan trọng. Cùng chùng sống, cùng chung mục đích sẽ giúp mọi trẻ có thể tham gia vào hoạt động, không bị cô lập, và đặc biệt sẽ góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng của công việc từ những nỗ lực chung của mọi thành viên.

·        Học để tự khẳng địnhh mình

Giáo dục phải đạt được yêu cầu giúp cho người học trở nên độc lập hơn tự tin hơn . Trong quá trình giáo dục, rèn luyện cho người học phải biết phê phán, đưa ra những ý kiến riêng, tự đưa ra những quyết định hành động trong những bối cảnh sống khác nhau. Giáo dục phải mang lại sự tự do suy nghĩ, phán đoán tự do phát triển tài năng và tự kiểm tra cuộc sống của mình. Trẻ khuyết tật khi tham gia vào quá trình giáo dục, các em hoàn toàn có thể tự tin vào chính năng lực của mình cũng như đưa ra các ý kiến. Tham gia vào quá trình giáo dục chung, trẻ khuyết tật có thể nhận rõ mình và có cơ hội được khẳng định khả năng của mình, bản thân mình trước các thành viên khác.

1.1.2. Mục tiêu giáo dục các cấp bậc học

Giáo dục trẻ khuyết tật là một bộ phận thuộc hệ thống giáo dục quốc dân phổ thông, vì vậy cũng cần phải đảm bảo các mục tiêu chung theo từng cấp, bậc học.

Điều 22. Mục tiêu giáo dục mầm non, Luật giáo dục 2005: "Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp 1".

Điều 27. Mục tiêu của giáo dục phổ thông, Luật giáo dục 2005: "Mục tiêu giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Mục tiêu của giáo dục phổ thông được tiếp tục quy định cho mục tiêu giáo dục ở từng cấp bậc (tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông).

Xây dựng mục tiêu giáo dục cho trẻ khuyết tật cần bám sát và đảm bảo hướng tới thực hiện mục tiêu giáo dục của mầm non và của các cấp, bậc học khác nhau.

1.1.3. Cơ sở kinh tế, văn hoá, giáo dục xã hội

Ngày nay, chúng ta đang đứng trước một thời đại nhiều cơ hội cũng như thách thức. Loài người đã đạt được những thành tựu về công nghệ thông tin, tin học, điện tử, vật liệu mới v.v… thực sự là những lực lượng sản xuất hiện đại. Đồng thời, những mâu thuẫn, thử thách mà con người phải đối mặt cũng là rất lớn: hội nhập và bản sắc văn hoá dân tộc, giữa giàu và nghèo, môi trường, dân số, bệnh tật v.v… Những hiểm hoạ, biến động là khó lường, nhưng xu thế phát triển của loài người là xu thế đi lên, tiến tới mục tiêu giải phóng con người, làm cho mọi năng lực trong mỗi con người được phát huy tối đa, sự tự do phát triển của mỗi người và của toàn xã hội.

Sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức đã tạo một cơ sở hạ tầng mới cho xã hội thông tin - xã hội học tập. Một xã hội học tập được thể hiện bằng hình thức học tập khác nhau. Học tập thường xuyên, học tập suất đời không chỉ còn là khẩu hiệu mà đã đi vào thực tiễn của đời sống con người.

Để đạt được một xã hội học tập đòi hỏi: trường, lớp cần được xây dựng tiêu chuẩn hơn, các thiết bị dạy học, bảng, bàn ghế… tốt hơn, hiện đại hơn, đội ngũ giáo viên được nâng cao hơn về chất lượng, đủ về số lượng. Nền giáo dục Việt Nam hiện nay đang tiến tới: xã hội hóa, hiện đại hóa, chuẩn hóa, đa dạng hóa, dân chủ hóa. Những nỗ lực này không thể đặt ngoài định hướng cho giáo dục trẻ khuyết tật Việt Nam. Trẻ khuyết tật được đến trường, môi trường lớp học cần phải phù hợp với nhu cầu học tập và sinh hoạt của các em. Các em được tiếp cận phương tiện học tập từ phổ thông đến hiện đại, tham gia các hình thức giáo dục khác nhau một cách bình đẳng, dân chủ, công bằng và được giáo dục nhận thức những vấn đề thời sự của xã hội,…

1.1.4. Cơ sở về năng lực và nhu cầu của trẻ khuyết tật.

·        Nhu cầu

          Mỗi người đều có nhu cầu nhất định để tồn tại và phát triển. Đó là những nhu cầu về vật chất và tinh thần, nó được phát sinh bởi nhiều yếu tố kích thích cả bên trong lẫn bên ngoài. Các nhân tố kích thích nhu cầu đó là đòi hỏi cá nhân về những cái cần thiết để tồn tại và phát triển. Chẳng hạn nhân tố kích thích bên trong như cảm giác đói, khát, muốn có một cái gì đó đển ăn hoặc giảm bớt cơn khát. Khi rơi vào trạng thái buồn chán, cô đơn người ta muốn tìm đến những người bạn để được chia sẻ… Nhu cầu có thể trở thành động cơ thúc đẩy con người hành động bởi những kích thích bên ngoài. Một trẻ phải dùng nạng để di chuyển, khi nhìn thấy các hoạt động vui chơi của các bạn cùng trang lứa sẽ kích thích khát vọng được di chuyển nhanh nhẹn, mạnh mẽ, cảm giác muốn được tham gia các trò chơi cùng bạn bè kích thích em cố gắng luyện tập để có đôi chân vững vàng hơn, khỏe mạnh hơn…

          Tuy nhiên, để hiểu rõ nhu cầu của trẻ khuyết tật không phải là đơn giản bởi lẽ có thể các em tự nhận thức thấy và tự biểu đạt nhu cầu thông qua hành vi, thói quen, nhưng cũng có những trẻ không thể hiện và không xuất hiện nhu cầu nếu không được kích thích. Để nhận biết được nhu cầu và kích thích các nhu cầu của trẻ khuyết tật  đòi hỏi các nhà giáo dục phải xác định được nhu cầu nào là nhu cầu cơ bản nhất của trẻ, những hoạt động nào có thể cho thấy sự xuất hiện nhu cầu của các em, cần phải thỏa mãn nhu cầu đó theo phương pháp, hình thức và hoạt  động nào? Khi chúng ta xác định được nhu cầu của trẻ, tạo ra môi trường kích thích phù hợp, cá nhân trẻ khuyết tật có thể sẽ tích cực tham gia hoạt động, tăng cường tìm kiếm thông tin để thỏa mãn nhu cầu.

          Theo nghiên cứu của Abraham Maslow, nhà tâm lí học Mĩ, ở mỗi người luôn tồn tại một hệ thống các nhu cầu từ thấp đến cao: đó là các nhu cầu về tồn tại, được an toàn, nhu cầu xã hội, nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu được phát triển. Trẻ khuyết tật với những hạn chế do khuyết tật, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động thể chất và tinh thần. Vì vậy, các em có những nhu cầu cấp bách đòi hỏi phải hỗ trợ, kích thích nhu cầu cũng như mong muốn, nỗ lực để đáp ứng của chính bản thân trẻ, giúp các em có thể tham gia hoạt động và hòa nhập với xã hội dễ dàng.

·                     Năng lực

          Mọi trẻ em đều có thể học được, các em có thể học theo cách khác nhau, và có những năng lực khác nhau trong một lĩnh vực nào đó.

          Học thuyết về trí thông minh đa diện của Howard Gardner cho rằng mỗi người đều có thể có ở mức độ khác nhau về 8 loại trí khôn: ngôn ngữ, logic toán học, âm nhạc, hội họa/không gian, vận động cơ thể, nội tâm, tương tác xã hội và tìm hiểu thiên nhiên.

          Chúng ta xác định: Thế giới bên ngoài nhà trường là cái đích của tất cả học sinh, nhà trường phải coi trọng sự khác biệt cá nhân của từng đứa trẻ, quan tâm tới trẻ và những khả năng khác nhau của trẻ để tổ chức tác động giúp các em phát huy năng lực một cách tốt nhất. Nhìn nhận mọi trẻ em đều có khả năng, khả năng đó thể hiện ở các mặt, các lĩnh vực khác nhau từ đó giúp các nhà giáo dục có thể áp dụng phương pháp dạy học phù hợp đối tượng, chú ý tới các hình thức tổ chức hoạt động, đa dạng hóa nội dung và chương trình học tập.

1.2. Mục tiêu giáo dục trẻ khuyết tật

          Mục tiêu giáo dục trẻ khuyết tật được hiểu theo nghĩa rộng, tức là mục tiêu chung và những mục tiêu giáo dục cụ thể gồm:

·                     Theo nghĩa rộng, mục tiêu giáo dục trẻ khuyết tật là:

          Đảm bảo cho trẻ khuyết tật hưởng những quyền giáo dục cơ bản, quyền tự do không tách biệt, tham gia vào hoạt động xã hội và có cơ hội cống hiến.

          Phát triển toàn diện các mặt cho trẻ khuyết tật, bao gồm: Đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và khả năng lao động; phát triển kiến thức, kĩ năng văn hóa xã hội, thái độ tích cực, tạo điều kiện hòa nhập cộng đồng khi trẻ 18 tuổi.

          Trẻ khuyết tật có cơ hội hòa nhập vào môi trường giáo dục bình thường, phát triển hài hòa và tối đa những khả năng còn lại để hình thành, phát triển nhân cách.

·                     Những mục tiêu giáo dục cụ thể cho trẻ khuyết tật:

          - Về kiến thức, kĩ năng văn hóa: Đạt trình độ phát triển tối đa so với khả năng của trẻ trong cùng thời gian và môi trường giáo dục phổ thông.

          - Về kĩ năng xã hội: Được trang bị những kiến thức và kĩ năng xã hội như trẻ bình thường ở cùng độ tuổi, có điều chỉnh cho phù hợp.

          - Phục hồi chức năng: Cải thiện tình trạng suy giảm chức năng do khuyết tật gây nên đồng thời phát huy tối đa những chức năng còn lại.

          - Giáo dục tự phục vụ, lao động: Phát huy tối đa khả năng tự phục vụ của trẻ trong các hoạt động sống, sinh hoạt, học tập hàng ngày.

          - Giáo dục lao động, hướng nghiệp và dạy nghề: Được hướng nghiệp, học nghề trong các cơ sở đào tạo để có một nghề hay một công việc có thu nhập và có cơ hội được cống hiến cho xã hội.

 

Lượt xem : 23782 Người đăng : Kim Phiến

Bình luận

Ý kiến độc giả

Liên kết:

Logo quảng cáo