Trang chủ --> Cuộc sống không giới hạn --> Cậu bé dùng chân tay giả
Hoàng Kim kỷ niệm 10 năm thành lập
Hoàng Kim kỷ niệm 10 năm thành lập
Tẩm quất Hoàng Kim
Tẩm quất Hoàng Kim
Tẩm quất Hoàng Kim
Tẩm quất Hoàng Kim

tin tức nổi bật

Cậu bé dùng chân tay giả

Hy vọng là một chất xúc tác. Nó có thể đẩy lùi những trở ngại khó đẩy lùi nhất. Khi không ngừng đấu tranh, bạn tạo ra động lượng để thúc đẩy bản thân mình tiến về phía trước. Hy vọng tạo ra các cơ hội mà bạn không thể ngờ được. Những người có thể giúp đỡ sẽ tìm đến bạn. Những cánh cửa sẽ mở ra. Những lộ trình được phát quang.

Hãy nhớ rằng hành động tạo ra phản ứng. Khi đứng trước nguy cơ muốn từ bỏ ước mơ, bạn hãy cố gắng thôi thúc bản thân tiếp tục đấu tranh thêm dù chỉ một ngày, một tuần, một tháng, một năm nữa. Bạn sẽ kinh ngạc trước những gì sẽ xảy ra khi bạn kiên quyết không chịu đầu hàng.

Khi tôi vào tiểu học, cha mẹ lại phải cố gắng vận động để tôi được học trường bình thường, thay vì học tại một trường dành cho trẻ đặc biệt. Niềm tin không gì lay chuyển nổi của họ đã đem lại kết quả như mong đợi. Tôi trở thành một trong những trẻ em khuyết tật đầu tiên ở Australia được “hòa nhập” vào hệ thống trường bình thường. Tôi học ở đó tốt đến mức báo địa phương cho đăng một bài viết nhan đề “Hòa nhập giúp cậu bé khuyết tật tỏa sáng”.

Bài báo được đăng kèm theo một bức ảnh chụp em gái Michelle cùng tôi đến trường trên chiếc xe lăn chạy điện, khơi mào cho một cuộc đột kích của giới truyền thông quốc gia, dẫn đến những chuyến thăm của các quan chức chính quyền, khiến tôi nhận được cơ man nào là thiệp, thư, quà tặng và những lời mời đến từ khắp cả nước.

Những khoản tài trợ nhận được sau khi bài báo đó được đăng tải đã giúp bố mẹ có điều kiện đưa tôi đi lắp chân tay giả. Từ khi tôi mới 18 tháng tuổi họ đã cố gắng lắp chân tay giả cho tôi. Bộ phận nhân tạo đầu tiên được lắp cho tôi chỉ là một cánh tay giả chẳng phát huy nhiều tác dụng. Cánh tay đó và bàn tay hoạt động được là nhờ những chiếc ròng rọc và đòn bẩy, và nó nặng gấp hai lần cơ thể tôi!

Giữ được thăng bằng với cánh tay giả nặng trịch đó quả là một thách thức không nhỏ. Tôi đã cố đeo nó một thời gian. Trước đó tôi đã trở nên thành thạo trong việc cầm các đồ vật bằng bàn chân nhỏ xíu, bằng cằm, bằng răng, vậy nên cánh tay giả ấy dường như chỉ làm cho những hoạt động hằng ngày của tôi trở nên khó khăn hơn. Thoạt đầu cha mẹ rất thất vọng, nhưng càng ngày tôi càng thêm tự tin bởi tôi cảm thấy thoải mái khi mình tự làm được các việc mà không cần chân tay giả. Tôi động viên cha mẹ, cảm ơn họ và tiếp tục hướng tới những ngày tốt đẹp hơn đang đón đợi phía trước.

Kiên trì hàm chứa sức mạnh. Lần thử nghiệm dùng bộ phận giả đầu tiên đã thất bại, nhưng tôi vẫn tiếp tục giữ niềm tin rằng cuộc sống luôn hướng tới điều tốt đẹp nhất. Niềm lạc quan và tinh thần phấn đấu vươn lên của tôi đã khích lệ cộng đồng câu lạc bộ “Những chú sư tử của chúng tôi”, một tổ chức từ thiện quốc tế, quyên góp được hơn 200.000 USD để giúp tôi thanh toán hóa đơn y tế và mua một chiếc xe lăn mới.

Một phần số tiền đó giúp chúng tôi thực hiện chuyến đi đến Toronto, Canada, để lắp một bộ tay giả chạy điện tiên tiến hơn được sản xuất riêng cho một bệnh viện nhi đồng. Tuy nhiên, cuối cùng, ngay cả các chuyên gia y tế cũng quyết định rằng tôi có thể tự thực hiện mọi việc một cách hiệu quả hơn là sử dụng sự hỗ trợ của chân tay giả.

Tôi cảm thấy háo hức khi nghĩ rằng một ngày nào đó các nhà khoa học sẽ tạo được chân tay cho tôi. Nhưng càng hy vọng vào điều đó tôi càng quyết tâm làm tất cả những gì có thể mà không trông chờ người khác tìm ra thứ gì đó giúp cải thiện cuộc sống của mình – chính tôi phải tự tìm ra câu trả lời. Chúng ta cần phải chịu trách nhiệm về hạnh phúc và sự thành công của mình. Bạn bè và gia đình của bạn có thể giúp đỡ bạn trong lúc khó khăn. Thậm chí, giờ đây tôi hoan nghênh bất cứ ai giúp tôi, cho dù là mở một cánh cửa để tôi có thể lăn xe đi hoặc cầm ly nước cho tôi uống.

Hãy biết ơn họ vì điều đó. Hãy hoan nghênh những nỗ lực của họ, nhưng bạn hãy cứ tiếp tục thúc đẩy chính bản thân mình để có thể tự lực cánh sinh. Càng tự thân vận động, bạn càng tạo ra được nhiều cơ hội cho mình.

Có lẽ đôi lúc bạn cảm thấy như thể mình sắp sửa đạt được mục tiêu để rồi lại thấy thất bại. Đó không phải là lý do để bỏ cuộc đâu. Thất bại chỉ xảy ra với những ai vấp ngã mà không quyết tâm đứng dậy. Tôi vẫn tin rằng một ngày nào đó tôi sẽ có thể bước đi, có thể nâng và cầm được các vật dụng như một người bình thường. Sẽ thật kỳ diệu khi điều đó xảy ra, cho dù Chúa mang nó đến cho tôi hay làm cho nó xảy ra thông qua những sứ giả của Người ở trái đất. Kỹ thuật chân tay giả đang tiến bộ từng ngày. Một ngày nào đó tôi sẽ có thể mang những bộ chân tay giả hoạt động hiệu quả, còn bây giờ tôi hài lòng với bản thân mình và những gì mình đang có.

Thường thì những thách thức lớn mà ta nghĩ đang cản trở ta, thực ra lại khiến ta trở nên mạnh mẽ hơn. Bạn nên tin rằng khuyết tật của hôm nay có thể sẽ trở thành lợi thế của ngày mai. Tôi luôn coi sự khiếm khuyết chân tay của mình là một tài sản, là vốn quý. Những người đàn ông, phụ nữ và trẻ em không nói ngôn ngữ của tôi chỉ cần nhìn tôi cũng có thể biết được rằng tôi đã vượt qua vô số khó khăn và thách thức. Họ biết rằng, đối với tôi, có được những bài học quý giá trên đường đời không phải là chuyện dễ dàng.

 

SÁNG SUỐT NHỜ TRẢI NGHIỆM

Khi nhắn nhủ khán thính giả của mình không ngừng nuôi hy vọng vào những ngày tốt đẹp hơn sẽ đến, tôi nói từ trải nghiệm của bản thân mình. Bạn có thể tin vào những gì tôi nói bởi vì chính tôi đã thấy được tính chân lý của nó qua những gì tôi đã sống.

Trong đời mình đã có lúc tôi từ bỏ hy vọng. Thời kỳ u ám trong quãng đời tuổi thơ khá hạnh phúc của tôi xảy đến khi tôi khoảng mười tuổi, khi mà những ý nghĩ tiêu cực tấn công và lấn át tôi. Cho dù đã cố gắng để trở nên lạc quan, quyết tâm và sáng tạo đến mức nào, tôi vẫn cảm thấy có những việc mình không thể nào thực hiện được. Có những hoạt động đơn giản, thế mà tôi đành bó tay.

Tôi buồn vì sự bất lực của mình trước những việc nhỏ, chẳng hạn như lấy một ly sôđa từ tủ lạnh, cái việc mà mọi đứa trẻ khác đều có thể làm được. Tôi không thể tự ăn uống được, và ghét phải nhờ người khác bón thức ăn cho mình. Tôi cảm thấy rất tệ khi người khác đang ăn mà cứ phải ngừng lại để giúp tôi.

  Những vấn đề lớn hơn cứ ám ảnh tôi trong giai đoạn này: Liệu tôi có bao giờ tìm được một người vợ thực sự yêu tôi hay không? Làm sao có thể cho cô ấy những đứa con? Làm sao tôi có thể bảo vệ được con mình nếu như chúng bị đe dọa?

Hầu hết mọi người đều có ý nghĩ như thế. Một lúc nào đó có thể bạn đã tự hỏi liệu bạn sẽ có được một mối quan hệ lâu dài, một công việc ổn định, một nơi an toàn để sống hay không. Suy nghĩ về tương lai là điều bình thường và lành mạnh, bởi vì đó là cách chúng ta phát triển tầm nhìn cho cuộc sống. Vấn đề là những ý nghĩ tiêu cực có thể che khuất tầm nhìn về tương lai và làm đầu óc bạn thiếu sáng suốt.

Tôi cầu nguyện và tôi nhắc mình nhớ lời Chúa, người đã giúp tôi biết được rằng Người luôn ở bên tôi. Người chưa bao giờ bỏ tôi. Người chưa bao giờ quên tôi. Người sẽ tạo ra những điều thậm chí tồi tệ nhất để rồi mọi điều hợp lại thành kết quả tốt đẹp. Tôi luôn nhắc mình dù tôi có phải chứng kiến chuyện gì ở ngoài đời, tôi vẫn phải hy vọng vào những lời hứa của Chúa. Tôi biết rằng Chúa đầy lòng nhân từ. Tôi có thể biết chắc chắn liệu Người cho phép điều gì đó tồi tệ xảy ra hay không, nhưng tôi có thể tin tưởng và hy vọng vào lòng nhân từ của Người.

KIỂM SOÁT Ý NGHĨ

Khi sắp tròn mười một tuổi, tôi bước vào giai đoạn của tuổi mới lớn đầy nhạy cảm, cái giai đoạn mà não của chúng ta tạo ra các kết nối và các chất hóa học lạ lùng lan tỏa khắp cơ thể. Những đứa con trai, con gái khác ở tuổi tôi đã bắt đầu cặp đôi, khiến cho cảm giác lẻ loi trong tôi càng tăng lên. Liệu trên đời này có cô gái nào lại cần một người bạn trai không thể cầm tay mình hoặc khiêu vũ với mình không?

Dù không ý thức, tôi cũng đã cho phép những ý nghĩ u ám và cảm giác tiêu cực ấy đè nặng lên tinh thần của mình và để cho gánh nặng đó ngày càng tăng. Thường thì những ý nghĩ đó len lén đi vào tâm trí tôi trong những đêm tôi không tài nào chợp mắt, hoặc khi tôi cảm thấy mệt mỏi sau một ngày dài ở trường. Chắc hẳn bạn biết cái cảm giác đó; chắc hẳn cũng có lúc bạn mệt mỏi, cảm thấy như thể gánh nặng của cả thế giới đang đè lên vai bạn. Ai trong chúng ta cũng đều trải qua những lúc tâm trạng chùng xuống như vậy, đặc biệt khi chúng ta mất ngủ, ốm yếu, hoặc khi những thách thức khác làm chúng ta cảm thấy bị tổn thương.

Không một ai trên đời này lúc nào cũng được hạnh phúc, lúc nào cũng phấn khởi. Nếu như có lúc tâm trạng của bạn trở nên chán nản thì điều đó cũng tự nhiên thôi. Sự chán nản cũng có mục đích của nó đấy. Theo các nghiên cứu tâm lý gần đây, tâm trạng chán nản có thể khiến bạn đánh giá công việc của mình bằng con mắt nghiêm khắc hơn, giàu tính phân tích hơn. Cách nhìn đó là hữu ích khi bạn thực hiện các việc như cân đối thu chi, tính thuế, hay biên tập một bài báo.

Ý nghĩ tiêu cực có thể sản sinh ra kết quả tích cực, miễn là bạn nhận thức một cách rõ ràng về chúng và kiểm soát được chúng. Chỉ khi bạn để cho cảm xúc điều khiển hành động của mình thì bạn mới phải đối mặt với nguy cơ rơi vào tình trạng trầm cảm và có hành vi tự hủy hoại bản thân.

Điều then chốt là hãy kiên quyết không để cho cảm xúc tiêu cực hoặc cảm giác chán nản, tuyệt vọng điều khiển chúng ta. May mắn thay, bạn cũng như tôi, chúng ta hoàn toàn có đủ khả năng để điều chỉnh thái độ. Khi bạn phát hiện thấy ý nghĩ tiêu cực đang lan tràn trong tâm trí mình, bạn có thể chọn nhấn nút “tắt”. Hãy nhận biết các cảm xúc, những ý nghĩ tiêu cực và xác định rõ nguyên nhân gây ra chúng, nhưng hãy tập trung tâm trí vào các giải pháp thay vì vào các vấn đề.

Tôi nhớ khi học Kinh Thánh, tôi được xem một bức tranh mang tên “Khí giới của Chúa Trời” trong đó có chiếc giáp che ngực tượng trưng cho sự ngay thẳng, chiếc thắt lưng tượng trưng cho sự thật, chiếc khiên tượng trưng cho đức tin, thanh kiếm tượng trưng cho tinh thần và chiếc mũ giáp tượng trưng cho sự cứu rỗi. Tôi biết rằng tất cả những thứ đó là vũ khí mà một cậu bé theo đạo Cơ Đốc sẽ cần đến. Tôi hiểu Chúa nhắn nhủ các con chiên của Người hãy dùng thanh kiếm để đấu tranh với những ý nghĩ tiêu cực. Thanh kiếm đó là Kinh Thánh. Và trong cuộc sống bạn cũng thường giơ chiếc khiên của đức tin lên để bảo vệ bản thân.

VŨNG XOÁY CỦA THẤT VỌNG

Ở cái tuổi mới lớn ấy, khi mà tinh thần tự tôn và sự tự ý thức về hình ảnh của bản thân trở nên rất quan trọng, tôi đã để cho nỗi lo lắng và sợ hãi lấn át mình. Tất cả những ý nghĩ tiêu cực về bản thân áp đảo mọi ý nghĩ tích cực.

Mình thật thiệt thòi, kém may mắn. Mình sẽ chẳng bao giờ có được một cuộc sống bình thường, một công việc bình thường, chẳng bao giờ có vợ, có con được! Mình sẽ luôn là gánh nặng cho những người xung quanh.

Tôi chưa bao giờ thực sự tàn tật cho đến khi tôi mất hy vọng. Hãy tin tôi đi, mất hy vọng còn tồi tệ hơn cả mất chân tay. Nếu bạn đã từng trải nghiệm cảm giác đau khổ và suy sụp tinh thần, thì bạn chắc hẳn biết rõ sự thất vọng tồi tệ đến mức nào. Khi ấy tôi cảm thấy tức giận, bị tổn thương và bối rối hơn bao giờ hết.

Tôi cầu nguyện và hỏi Chúa rằng, tại sao Người lại không thể cho tôi những gì mà Người có thể cho những người khác. Tôi đã làm gì sai chăng? Và vì thế mà Người không đáp lại lời cầu nguyện của cha mẹ tôi, lời cầu xin có chân, có tay mà tôi đau đáu thực hiện mỗi ngày? Tại sao Người không cứu giúp tôi? Tại sao Người lại bắt tôi phải chịu đựng buồn tủi như thế này?

Cả Chúa lẫn các bác sĩ đều không thể giải thích được tại sao tôi lại sinh ra không có chân tay. Không có bất cứ lời giải thích nào cả, thậm chí cả một lời giải thích về mặt khoa học cũng không và điều đó chỉ càng khiến tôi cảm thấy tồi tệ hơn. Tôi cứ tiếp tục nghĩ rằng nếu có một lý do nào đấy, liên quan đến tâm linh, khoa học hay bất cứ gì khác, thì có lẽ tôi sẽ đương đầu với hoàn cảnh dễ dàng hơn. Nếu có một lý do nào đó giải thích cho việc tôi không có chân tay, có lẽ nỗi đau của tôi không ghê gớm đến thế.

Nhiều lúc chán nản đến mức tôi không chịu đến trường. Trước đó, cảm giác tủi thân không phải là một vấn đề đối với tôi. Tôi đã không ngừng cố gắng để vượt lên khuyết tật, để sống và sinh hoạt bình thường như bao người, để vui chơi như những đứa trẻ khác. Hầu như lúc nào tôi cũng tạo được ấn tượng với cha mẹ, với thầy cô giáo và bạn học bằng chính lòng quyết tâm và tinh thần tự lực. Tuy nhiên, tôi giấu kín một nỗi buồn ở trong lòng.

Tôi được nuôi nấng như một đứa trẻ thiên về đời sống tinh thần. Tôi chăm chỉ đi lễ nhà thờ và tin vào sự cầu nguyện cũng như sức mạnh của Chúa. Tôi tin vào sự hiện diện của Chúa Jesus đến mức khi ăn tối, tôi mỉm cười, nghĩ rằng Chúa đang ở bên chúng tôi ngay tại bàn ăn, đang ngồi ở chiếc ghế trống trong khi chúng tôi ăn. Tôi cầu nguyện để mình có được chân tay như bao người. Trong một thời gian, tôi cứ mong một buổi sáng nào đó, khi thức dậy, tôi thấy mình có chân có tay. Mỗi lần cầu nguyện tôi chỉ cầu mình có được một tay hoặc một chân thôi. Tôi mong mãi mà chẳng thấy mình có chân tay, và thế là tôi đâm ra giận Chúa.

Tôi nghĩ rằng tôi hiểu Chúa sáng tạo ra tôi với mục đích gì. Người tạo ra tôi như một cộng sự của người để tạo ra điều kỳ diệu, để thế giới thừa nhận rằng có Chúa trên đời này. Tôi thường cầu nguyện: “Lạy Chúa, nếu Người cho con tay và chân, con sẽ đi vòng quanh thế giới và chia sẻ điều kỳ diệu đó với mọi người. Con sẽ lên truyền hình và kể cho tất cả mọi người biết điều gì đã xảy ra, và qua câu chuyện của con thế giới sẽ được thấy sức mạnh của Người”. Tôi nói với Chúa rằng tôi đã hiểu mục đích của người và tôi sẵn sàng phụng sự mục đích đó. Tôi nhớ mình đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, con biết Người tạo ra con như thế này để Người có thể cho con chân tay và điều kỳ diệu đó sẽ chứng minh cho mọi người thấy sức mạnh và tình yêu của Người”.

 Khi còn nhỏ, tôi đã biết Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách. Tôi cảm thấy Người có thể trả lời tôi bằng cách đặt một cảm xúc vào trái tim tôi. Nhưng tôi chỉ thấy sự im lặng mà thôi. Tôi chẳng thấy gì hết.

Cha mẹ tôi thường nói: “Chỉ có Chúa mới biết tại sao con sinh ra như thế này”. Khi đó tôi đã hỏi Chúa, và Người không nói gì cho tôi biết hết. Những lời cầu xin khẩn khoản không được thỏa mãn và những câu hỏi không được trả lời khiến tôi buồn lòng lắm bởi vì trước đó tôi cảm thấy mình rất gần gũi với Chúa.

Tôi cũng phải đương đầu với những thách thức khác. Dạo đó gia đình tôi chuyển lên vùng duyên hải Queensland ở phía bắc, cách xa chỗ ở cũ tới 1.000 dặm, xa họ hàng thân thuộc. Cái kén bảo vệ của các cô dì chú bác và hai mươi sáu anh chị em họ bị tháo bỏ. Sự căng thẳng của việc chuyển nơi ở bao trùm lên cha mẹ tôi. Mặc dù có sự quả quyết, tình yêu và sự hỗ trợ, nâng đỡ của cha mẹ, tôi vẫn không thể nào rũ bỏ được cái cảm giác mình là một gánh nặng lớn.

Cứ như thể tôi đã phủ tấm khăn màu đen lên cuộc đời mình để ngăn không cho mình nhìn thấy một chút ánh sáng nào. Tôi không thể thấy được mình còn có ích cho một ai. Tôi cảm thấy tôi chỉ là một lỗi sai, một sản phẩm dị dạng của tạo hóa, một đứa con bị lãng quên của Chúa. Cha mẹ đã cố gắng hết sức để nói với tôi điều ngược lại. Họ đọc Kinh Thánh cho tôi nghe. Họ đưa tôi đến nhà thờ. Những giáo viên giảng đạo dạy tôi rằng Chúa yêu tất cả mọi người. Nhưng tôi không thể vượt ra ngoài nỗi đau khổ và tức giận được.

Hồi ấy tâm trạng tôi cũng có những lúc tươi sáng hơn. Ở trường học giáo lý, tôi cảm nhận được niềm vui khi cùng bạn học hát vang những bài thánh ca, “Chúa Jesus yêu hết thảy thiếu nhi trên thế gian; không phân biệt em da vàng, da nâu, da trắng, da đen; trong mắt Người, các con đều đáng yêu. Chúa yêu thương tất thảy đàn con thiếu nhi trên thế gian”.

Ở giữa những người luôn yêu thương và giúp đỡ, tôi ghi sâu bài thánh ca đó trong tim. Nó an ủi tôi nhiều lắm. Nhưng khi cảm thấy mệt mỏi hoặc ốm yếu, những ý nghĩ u ám lại xâm chiếm tâm trí tôi. Tôi ngồi trên xe lăn trong sân chơi, tự hỏi: Nếu Chúa thực sự yêu tôi như yêu những đứa trẻ khác, tại sao Người lại không cho tôi có chân tay?

Các giáo viên ngày Chủ nhật dạy tôi rằng Chúa yêu tất cả mọi người. Người rất quan tâm tới chúng ta. Tôi muốn tin vào điều đó, nhưng rồi vào thời ấy, trong tôi lại hiện lên câu hỏi: Nếu Chúa thực sự yêu tôi như yêu những đứa trẻ khác, tại sao Người lại tạo ra tôi khác với những đứa trẻ khác?

Những ý nghĩ đó bắt đầu xâm nhập vào đầu óc tôi ngay cả ban ngày, cả trong lúc tôi có chút niềm vui. Một hôm tôi đang ngồi trên mặt chiếc bàn quầy rất cao ở trong bếp nhìn mẹ nấu bữa tối - một thói quen giúp tôi tìm thấy sự an ủi và thư giãn - thì những ý nghĩ tiêu cực bỗng ập đến, tôi muốn ném mình xuống khỏi mặt bàn. Tôi nhìn xuống bên dưới, nghĩ rằng mình sẽ lao xuống, nhưng rồi nỗi sợ hãi lấn át sự tuyệt vọng nên tôi ngưng lại. Lúc bấy giờ tôi đang vật lộn với cảm giác tuyệt vọng, rằng cuộc đời tôi rồi đây sẽ vô cùng khó khăn. Chúa dường như không đáp lại lời nguyện cầu của tôi. Nhìn mẹ tôi làm việc trong nhà bếp, tôi bỗng nhiên không muốn trở thành gánh nặng của bà.

Thế là ý định quăng mình xuống lại tiếp tục tấn công tôi. Tôi loay hoay tính toán xem mình nên lao xuống phía nào, để đảm bảo rằng tôi sẽ gãy cổ và chết ngay tức thì. Nhưng rồi tôi tự bảo mình rằng tôi không nên làm thế, chủ yếu bởi vì nếu ném mình xuống mà không chết thì tôi sẽ phải giải thích tại sao tôi lại thất vọng đến nhường ấy. Cái lần tôi suýt nữa tự hủy hoại mình đó quả là đáng sợ. Đáng lẽ nên nói cho mẹ biết tôi đang nghĩ gì, nhưng tôi ngại. Tôi không muốn làm mẹ hoảng sợ.

Khi ấy tôi còn nhỏ, và mặc dù được sống giữa những người yêu thương mình, tôi đã không tìm đến họ để tâm sự về nỗi lòng của mình. Tôi có những nguồn giúp đỡ và sẻ chia, nhưng tôi đã không sử dụng những nguồn ấy, và đó là một sai lầm.

Nếu bạn cảm thấy mình bị lấn át bởi tâm trạng thất vọng, thì bạn không phải đương đầu với nó một mình đâu bạn ạ. Những người yêu thương bạn sẽ không cảm thấy bạn là gánh nặng đâu. Họ muốn giúp bạn. Nếu bạn cảm thấy không thể tâm sự với người thân, thì hãy tìm đến những chuyên gia tư vấn ở trường, ở nơi làm việc, ở cộng đồng. Bạn không hề đơn độc. Tôi không đơn độc. Giờ đây tôi đã hiểu được điều đó và tôi không muốn bạn cũng giống tôi trước kia đã từng suýt phạm phải sai lầm chết người.

Nhưng lúc đó trong lòng tôi tràn ngập tuyệt vọng. Khi ấy tôi đã quyết định rằng để chấm dứt mọi nỗi đau khổ, tôi nhất định phải kết thúc cuộc sống của mình.

TIẾNG GỌI THÂN THƯƠNG

Một buổi chiều sau khi tan học, tôi hỏi mẹ rằng liệu bà có thể giúp đưa tôi vào bồn tắm để tôi dầm nước một lúc không. Khi mẹ ra khỏi phòng tắm, tôi bảo mẹ đóng cửa lại. Sau đó tôi ngâm mình xuống nước, ngâm đến tận tai. Trong im lặng, những ý nghĩ rất nặng nề, u ám lan tràn. Tôi đã lên kế hoạch cho việc tôi muốn làm từ trước.

Nếu Chúa không mang nỗi khổ đau của tôi đi và nếu không có mục đích nào dành cho tôi trong cuộc đời này… nếu tôi tồn tại trên đời này chỉ để chịu đựng sự xa lánh và cô đơn… nếu tôi là gánh nặng cho mọi người và tôi không có tương lai… thì tôi nên kết thúc cuộc sống của mình ngay bây giờ.

Như tôi đã kể về quá trình học bơi của mình, tôi có thể làm cho người mình nổi trên mặt nước trong tư thế nằm ngửa bằng cách hít đầy không khí vào phổi. Ở trong bồn tắm, tôi cố gắng tính xem có thể giữ được bao nhiêu không khí trong phổi trước khi tôi lật úp người xuống. Mình có thể nín thở trước khi mình lật úp người xuống không? Mình sẽ hít vào một hơi thật sâu, hay chỉ hít vào nửa chừng thôi? Mình có nên thở ra rồi hãy lật người không?

Cuối cùng tôi cứ lật người và úp mặt mình xuống nước. Theo bản năng, tôi giữ hơi. Bởi vì phổi của tôi rất khỏe, nên tôi giữ được người mình nổi được một lúc lâu.

Khi trong phổi tôi đã cạn không khí, tôi lại lật người lên.

Mình có thể làm được việc đó rồi.

Nhưng những ý nghĩ u ám vẫn bám lấy tôi: Mình muốn thoát khỏi cuộc đời này. Mình chỉ muốn biến mất khỏi thế giới này.

Tôi trút hết không khí trong phổi ra và lại lật úp người xuống một lần nữa. Tôi biết mình có thể giữ hơi được ít nhất mười giây, vậy nên tôi đếm…10…9…8…7…6…5…4…3

Trong khi tôi đếm, một hình ảnh vụt hiện trong đầu tôi: hình ảnh cha mẹ tôi đang đứng trước mộ tôi khóc trong đớn đau. Tôi nhìn thấy đứa em trai bảy tuổi, Aaron, cũng đang khóc. Tất cả những người thân yêu nhất của tôi đều đang khóc và nói rằng đó là lỗi của họ, rằng lẽ ra họ phải làm được nhiều hơn cho tôi.

Tôi không thể nào chịu đựng nổi cái ý nghĩ bỏ lại những người thân của mình, để họ đau khổ và tự dằn vặt bản thân về cái chết của tôi trong suốt phần đời còn lại.

Mình ích kỷ quá.

Tôi vội lật người lên và hít vào một hơi thật sâu. Tôi không thể làm điều đó. Tôi không thể để lại cho gia đình mình gánh nặng của sự mất mát và cảm giác có lỗi.

Nhưng nỗi đau của tôi là quá sức chịu đựng. Đêm hôm đó trong phòng của hai anh em, tôi bảo Aaron: “Khi anh 21 tuổi, anh sẽ lên kế hoạch tự vẫn”.

Tôi đã nghĩ mình có thể theo hết bậc trung học và vào đại học, nhưng không thể nhìn thấy bất kỳ tương lai nào cho mình sau chặng đường đó. Tôi không dám chắc mình có thể kiếm được việc làm, có thể lập gia đình giống như những người đàn ông khác. Cô gái nào muốn cưới tôi chứ? Vậy nên, tuổi 21 dường như là điếm kết thúc của cuộc đời tôi. Tất nhiên, còn phải đi cả một đoạn đường dài nữa tôi mới chạm đến tuổi đó.

“Em sẽ mách bố là anh đã nói như thế”, em trai tôi phản ứng.

Tôi bảo nó đừng nói với bất cứ ai và nhắm mắt ngủ. Điều tiếp theo tôi biết được là, tôi thấy cha tôi ngồi xuống giường, cạnh tôi.

“Con nói về chuyện con muốn tự vẫn cho cha nghe, được không?”, ông hỏi.

Giọng ông ấm áp và quả quyết. Ông đã nói với tôi về tất cả những điều tốt đẹp ở phía trước. Vừa nói ông vừa vuốt tóc tôi. Tôi luôn thích được cha vuốt tóc như thế.

“Chúng ta sẽ luôn bên con, con yêu ạ”, ông quả quyết. “Mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Cha hứa rằng cha mẹ luôn bên con, giúp đỡ con. Con sẽ ổn, con trai ạ”.

Đôi khi chỉ một cử chỉ vuốt ve đầy yêu thương, một cái nhìn đầy ân cần cũng có thể xoa dịu trái tim đau đớn, chán nản và làm dịu cái đầu lộn xộn của một đứa trẻ. Vào lúc đó, việc cha tôi cam đoan rằng mọi chuyện sẽ ổn cũng đã đủ để giúp tôi an lòng. Bằng giọng nói và cử chỉ đầy ân cần, ông đã thuyết phục tôi rằng ông tin chúng tôi sẽ tìm ra một con đường cho bản thân tôi. Đứa con trai nào cũng muốn tin ở cha mình, và đêm hôm đó ông đã mang đến cho tôi điều gì đó để hy vọng.

Đối với một đứa trẻ, không có sự bảo đảm nào giống như lời bảo đảm của một người cha. Cha tôi rất hào phóng trong những việc như thế và rất giỏi thể hiện tình yêu và sự ủng hộ, động viên đối với tất cả mọi người trong gia đình. Tôi vẫn không hình dung ra làm thế nào mà mọi chuyện sẽ diễn ra tốt đẹp được, nhưng bởi vì cha tôi đã nói rằng mọi chuyện sẽ tốt đẹp nên tôi tin.

Sau cuộc nói chuyện của hai cha con, tôi ngủ một giấc thật ngon. Thỉnh thoảng tôi vẫn phải đương đầu với những ngày đêm tồi tệ. Nhưng tôi tin tưởng ở cha mẹ mình và tiếp tục nuôi hy vọng trong một thời gian dài trước khi tôi thực sự có thể hình dung được cuộc sống tương lai của mình sẽ như thế nào. Thậm chí cho đến bây giờ, giống như bất cứ người nào khác, tôi vẫn có những lúc buồn, nhưng tôi không bao giờ nghĩ đến việc tự vẫn nữa. Khi tôi nhìn lại thời điểm đó và ngẫm nghĩ về cuộc sống của mình từ bấy đến nay, tôi chỉ có thể cảm ơn Chúa vì đã cứu tôi thoát khỏi tuyệt vọng.

HÃY HY VỌNG

Qua các buổi diễn thuyết ở hai mươi bốn quốc gia, qua những DVD, và những hình ảnh thu hút hàng triệu lượt người xem trên YouTube, tôi đã có được cái diễm phúc mang thông điệp hy vọng đến với rất nhiều người trên thế giới. Bạn thử nghĩ mà xem, tôi sẽ bỏ lỡ mất bao nhiêu niềm vui nếu như tôi tự kết thúc đời mình ở tuổi lên mười. Tôi sẽ không có cơ hội tuyệt vời để gặp gỡ và chia sẻ câu chuyện đời mình với hơn 120.000 người ở Ấn Độ, 18.000 người tại một sân vận động ở Colombia, và 9.000 người sau một trận bão lớn ở Ukraine.

Qua thời gian tôi hiểu được rằng, mặc dù tôi đã ruồng bỏ cuộc sống của mình vào cái ngày đen tối đó, Chúa đã tiếp nhận nó.

Người đã nhận lấy cuộc sống của tôi và mang đến cho nó ý nghĩa, mục đích, niềm vui trên mức mà một đứa bé mười tuổi có thể hiểu được.

Bạn đừng bao giờ phạm phải cái sai lầm như tôi đã suýt phạm phải, bạn nhé.

Vào năm 1993, nếu tôi cứ tiếp tục để mặt mình chìm dưới nước sáu phân, thì có thể tôi đã chấm dứt được nỗi đau khổ trước mắt, nhưng cái giá phải trả cho việc đó là gì? Khi ấy tôi, một đứa trẻ đang ở trong tâm trạng thất vọng, có lẽ không thể biết trước được hình ảnh của chính nó trong tương lai, hình ảnh một chàng thanh niên vui vẻ đang bơi với những chú rùa biển ở Hawaii, lướt sóng ở California, hoặc lặn dưới biển ở Colombia. Quan trọng hơn, đứa trẻ đó cũng chẳng thể biết trước được rằng về sau nó lại có thể đến để sẻ chia niềm tin và hy vọng với nhiều mảnh đời như thế.

Tôi chỉ là một ví dụ nhỏ. Bạn hãy chọn cho mình một anh hùng của đời thực để noi theo. Đó là Mẹ Teresa, người anh hùng giải phóng dân tộc Mahatma Gandhi, hay mục sư Martin Luther King. Bạn sẽ tìm được một người nào đó phải đương đầu với nghịch cảnh – nghịch cảnh của tù đày, bạo lực, thậm chí bị cái chết đe dọa – nhưng luôn giữ niềm tin sắt son rằng mơ ước của họ có thể chiến thắng tất thảy.

Khi ý nghĩ tiêu cực và tâm trạng chán nản tấn công bạn, hãy nhớ rằng bạn vẫn có sự lựa chọn của mình. Nếu bạn cần giúp đỡ, thì hãy tìm kiếm sự giúp đỡ. Bạn không hề đơn độc. Bạn có thể lựa chọn mơ ước về những ngày tốt đẹp hơn ở phía trước và lựa chọn thực hiện những hành động sẽ biến mơ ước ấy thành hiện thực.

Bạn thử nghĩ về những gì tôi đã phải đối mặt khi còn là một đứa trẻ và hãy thử nhìn cuộc sống của tôi bây giờ. Ai biết được những ngày tốt đẹp và những thành công tuyệt vời nào đang đợi bạn ở phía trước? Ai biết được có bao nhiêu mảnh đời, bao nhiêu số phận mà chúng ta có thể giúp làm cho trở nên tốt đẹp hơn bằng cách tìm đến với họ như một điều kỳ diệu của cuộc sống? Vậy nên hãy sánh bước cùng tôi, người đàn ông không có chân, không có tay, để đi tới một tương lai tràn đầy hy vọng! 

Lượt xem : 1093 Người đăng :

Bình luận

Ý kiến độc giả

Liên kết:

Logo quảng cáo